Truyện cổ tích Sự tích sầu riêng
Sự tích sầu riêng là câu chuyện cổ tích, kể về nguồn gốc của một loại quả đặc biệt, có mùi hương thơm đặc trưng, nặng và nồng, đó chính là trái sầu riêng.
1. Truyện sự tích sầu riêng [Bản kể của Nguyễn Đổng Chi]
Câu chuyện này được kể lại dựa trên Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam Nguyễn Đổng Chi. Nội dung của truyện như sau:
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khỏi nghĩa, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng Nai. Chàng là người có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ. Chàng từng cầm quân mấy lần đánh cho tan tác thầy trò Nguyễn Ánh.
Nhà Tây Sơn mất, Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người từng theo nhà Tây Sơn.
Nhân dân trong xóm quý mến chàng, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ để tiện đi lại.
Không muốn rơi vào tay quân địch, chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long , chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.
Một hôm, chàng dừng thuyền, lên bộ để mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà Lon, về đến đây thì người con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng đã cứu chữa cho cô gái khỏi bệnh. Sẵn có thuyền, chàng chở họ về tận nhà.
Cô gái đem lòng quyến luyến chàng. Sau một tuần chay tạ ơn Trời, Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lời và từ đó hai vợ chồng làm ruộng, nuôi tằm, xây dựng gia đình đầm ấm.
Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây “tu rên” mà ở xứ sở chàng không có. Mùa trái chín đến, vợ bổ một trái đưa cho chồng ăn. Trái “tu rên” vốn có một mùi khó chịu. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo:
– Chàng cứ thử ăn vào, sẽ thấy nó đậm đà như lòng thiếp vậy.
Không ngờ một ngày kia, vợ đi dâng hương Đế Thiên, Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tuy cách trở âm dương, nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng.
Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê nhà nhắn tin lên bảo chàng về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết sẽ đi theo cho đến sơn cùng thủy tận.
Năm ấy, cây “tu rên” tự nhiên chỉ ra mỗi một trái. Trái “tu rên” ấy lại tự nhiên rụng vào vạt áo chàng giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ, quyết đưa nó cùng về xứ sở.
Chàng trở lại về nghề dạy học, nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ươm hạt “tu rên” thành cây, đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đấy ngoài công việc dạy học, chàng còn có việc chăm nom cây quý.
Những cây “tu rên” của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã lốm đốm bạc. Nhưng ông thấy lòng mình trẻ lại khi những cây mà ông bấy lâu chăm chút nay bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng, làng xóm tới nhà nhân ngày giỗ vợ và nhân thể thưởng thức một thứ trái lạ chưa hề có ở trong vùng.
Khi những trái “tu rên” được bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Chủ nhân biết ý, đã nói đón: “Nó xấu xí, có mùi khó chịu, nhưng chính những mùi của nó ở trong lòng lại đẹp đẽ, thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ”. Ông ta vừa nói vừa bổ những trái “tu rên” chia từng múi cho mọi người cùng nếm.
Đoạn, ông ta kể hết câu chuyện tình duyên xưa mà từ khi về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy, hai giọt lệ long lanh tự nhiên nhỏ vào múi “tu rên” đang cầm ở tay. Hai giọt nước mắt ấy sôi lên trên múi “tu rên” như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.
Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy, dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống; nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi “tu rên” bằng hai tiếng “sầu riêng” để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng.
Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng loại hạt có hai giọt nước mắt của chàng mới là thứ sầu riêng có trái ngon và thơm hơn các thứ khác.
[alert style=”danger”]2. Sự tích sầu riêng [Bản kể của Sơn Nam – Tô Nguyệt Đình]
Khác với nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đình Chi, sự tích trái sầu riêng của hai tác giả Sơn Nam và Tô Nguyệt Đình lại là câu chuyện hoàn toàn khác, kể về hai anh em ruột nhưng bất đồng quan điểm sống. Câu truyện này được trích trong cuốn “Truyện xưa – Tích cũ” – của NXB Trẻ – 1993
Thủa xưa, có hai em cùng nhau đến dựng nhà bên bờ suối. Người anh là một quan Tể tướng tại trào, nhưng vì chán cảnh danh lợi phù du nên lìa bỏ phồn hoa đô hội, bỏ cả hầu thiếp, ăn mặc áo bã hài gai về ẩn dật trong cảnh lâm tuyền, mượn gió mát trăng thanh, cầm, kỳ, thi, tửu làm bâu bạn.
Bấy lâu nương nhờ vào sự vinh hiển của người anh, nên người em mới tạm theo về hôm sớm bên anh, chứ lòng thì chỉ nghĩ đến lợi danh, mũ cao áo rộn nơi chốn kinh thành xa hoa tráng lệ. Người em từng tìm cách xa lánh núi rừng để trở về thành thị. Biết vậy, người anh thường khuyên em:
– Càng cao danh vọng, càng giàu gian nan. Chú lưu luyến cảnh lầu son gác tía, có kẻ hầu người hạ mà làm gì cho bận tâm, nhọc xác. Chúng ta sống thong dong trong cảnh thiên nhiên như thế này, chẳng thảnh thơi, sung sướng lắm sao!
Những lời người anh nói, người em thường gác bỏ ngoài tai, lại chê trách anh mình gàn dở, nên mới bỏ địa vị Tể tướng tại trào, chọn cái sống mai một như cỏ cây. Ngày ngày người em tìm đủ cách hoặc tạo lấy cơ hội để tiến thân với nhà vua.
Một hôm, gần bờ suối có cội cây trổ sanh một quả, trông hình dáng xù xì như quả mít tố nữ, ngặt vì vỏ cứng và có gai lổm chổm nhọn hoắt như từng mũi kim châm. Thật là một quả lạ chưa từng thấy bao giờ, mùi thơm lại thoảng đưa nồng nực. Người em cho rằng cơ hội tiến thân của mình đã đến rồi, liền hái quả lạ ủ vào trong lá, để ngày mai đem về kinh thành dâng lên cho vua thưởng thức.
Người anh hết sức khuyên ngăn em không nên liều lĩnh mà chuốc vạ vào thân. Nơi chốn triều đình chẳng thiếu chi trái ngon, vật lạ, vua đoái hoài chi đến một thứ quả hình dạng xấu xa. Người em vẫn không nghe, cứ quyết định ra đi.
Khi người em xuống đến kinh thành. Đem quả lạ dâng lên vua bảo là quả này có mùi thơm tựa hương trầm. Vua liền đòi người em vào, rồi truyền thị vệ lấy dao bổ quả quý ấy ra. Đến chừng nhà vua đưa lên mũi bỗng ngài nhăn mặt, bịt mũi kêu thúi om sòm. Các thị vệ bèn xúm lại bắt trói người em rồi đem ra chém đầu về tội khi quân.
Sau lúc chiếc đầu người em rơi rụng, quan Tư đồ vụt có ý tò mò, tìm đến nơi đã quăng trái lạ mà xem, ông thấy trái này có từng múi màu vàng, cơm của nó lầy nhầy như mỡ đặc, ngửi thấy mùi khó chịu mà nếm vào miệng thì ngọt ngào đầy mùi vị thơm ngon.
Lập tức quan Tư đồ vào bệ kiến nhà vua trình qua tự sự. Nhà vua vẫn chưa tin, truyền đem cho mình nếm thử. Quả nhiên, nhà vua thưởng thức được hương vị đặc biệt lạ lùng của trái quý này trước giờ chưa từng thưởng thức.
Nghĩ lại, nhà vua lấy làm hối hận lỡ tay giết oan một mạng người đã vì trọng vọng mình đem hiến dâng của lạ. Tuy vậy việc đã lỡ rồi, không lẽ để cho triều thần nhìn thấy sự lầm lỡ tắc trách của mình, nên nhà vua chỉ âm thầm với nỗi sầu riêng.
Hôm sau, vua cho truyền triều thần tìm xem gốc tích của trái lạ và hiện nơi nào có nó để hái đem về. Quan quân đi lùng kiếm ở khắp nơi vẫn không biết nơi nào có thứ trái lạ. Chỉ có người anh là biết, nhưng từ lúc hay tin người em bị rụng đầu vì hiến dâng trái lạ, người anh không khỏi châu mày hối tiếc, tại sao không quyết liệt ngăn cản em mình lao đầu vào chỗ chết.
Nghĩ thẹn và lòng những buồn riêng, người anh âm thầm sầu khổ như thấy em hiện về trách móc, cho đến lúc sự sầu riêng làm người anh nhuốm bệnh qua đời.
Về sau, một vị vua nhà Lý, đưa quân qua cánh rừng ấy, thấy trái lạ vừa chín vàng trên cây, mùi thơm bay phảng phất mới bảo quân sĩ hái xuống nếm thử, lại được nghe một người binh sĩ già kể chuyện nên mới đặt tên cho trái lạ là trái sầu riêng. Và câu chuyện Sự tích trái sầu riêng được ra đời từ đó.
[alert style=”danger”]Đặc điểm của trái sầu riêng
Sầu riêng là một loại quả đặc biệt, được nhiều người ở Đông Nam Á xem như là “vua của các loại trái cây”. Nó có đặc điểm là kích thước lớn, mùi mạnh, và nhiều gai nhọn bao quanh vỏ. Tùy thuộc vào từng loài mà quả có hình dáng từ thuôn đến tròn, màu vỏ từ xanh lục đến nâu, màu thịt quả từ vàng nhạt đến đỏ.
Sầu riêng có nguồn gốc từ Đông Nam Á, được thế giới phương Tây biết đến khoảng 600 năm. Thịt quả có thể ăn được, và tỏa ra một mùi đặc trưng, nặng và nồng, ngay cả khi vỏ quả còn nguyên.
Một số người thấy trái sầu riêng có hương thơm ngọt ngào dễ chịu, nhưng một số khác lại không chịu nổi và khó chịu với mùi vị này. Mùi hương của sầu riêng tạo nên những phản ứng từ mê mẫn cho đến kinh tởm mãnh liệt, và được mô tả như mùi hành tây thối, nhựa thông hoặc nước cống.
Do mùi của sầu riêng ám rất lâu cho nên nó bị cấm mang vào một số khách sạn và phương tiện giao thông công cộng ở Đông Nam Á.
Ở nước ta, sầu riêng chỉ được trồng ở các tỉnh thành phía Nam, do đây là loại cây ăn quả nhiệt đới, không thể chống chọi được sức lạnh của mùa đông miền Bắc.
Nhà văn Mai Văn Tạo từng có nhận xét như sau:
“Sầu tiêng là loại trái quý, trái hiếm của miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa, lâu tan trong không khí. Còn hàng chục mét mới tới nơi để sầu riêng, hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi. Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của ong già hạn. Hương vị quyến rũ đến kì lạ.
Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu tím ngát. Cánh hoa như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những cánh hoa. Mỗi cuống hoa ra một trái. Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành trông giống những tổ kiến. Mùa trái rộ vào dạo tháng tư, tháng năm ta.
Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về cái dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng, hơi khép lại, tưởng như lá héo. Vậy mà khi trái chín, hương tỏa ngạt ngào, vị ngọt đến đam mê.”
Truyện sự tích sầu riêng
– TheGioiCoTich.Vn –