12 chiến công của Heracles (Hercules) – Thần thoại Hy Lạp

Câu chuyện “12 chiến công của Heracles (Hercules)”

“12 chiến công của Heracles” là một chuỗi nhiệm vụ khó khăn mà Heracles (còn được gọi là Hercules) phải hoàn thành như một phần của hình phạt để chuộc tội vì giết người trong trạng thái điên loạn.

Dưới đây là danh sách 12 chiến công của Heracles:

  1. Giết con Sư tử Nemea.
  2. Tiêu diệt con chó đầu rắn ở đầm lầy Lerna.
  3. Bắt con lợn rừng Erymanthos
  4. Bắt con nai chân cứng sừng vàng trên đỉnh Keryneia.
  5. Đánh bại đàn chim hồ Stymphalian
  6. Bắt sống con bò mộng của vua Minos ở Crete.
  7. Mang về đàn ngựa cái của Diomedes.
  8. Lấy chiếc thắt lưng của Hippolyta – nữ vương của những chiến binh Amazon.
  9. Dọn sạch khu chuồng ngựa của Augeas.
  10. Cướp đàn bò của Geryon.
  11. Trộm những quả táo vàng trong khu vườn của người Hesperides.
  12. Xuống địa ngục mang con chó ba đầu Cerberus của thần Hades về.

Những chiến công này đã góp phần làm tăng thêm truyền thuyết và huyền thoại về sức mạnh, can đảm và khéo léo của Heracles. Chúng đã trở thành một phần quan trọng của thần thoại Hy Lạp và vinh danh Heracles như một anh hùng vĩ đại.

Nhờ những thành tựu của mình trong 12 chiến công, Heracles đã đạt được sự tôn vinh, tên tuổi của chàng trở nên bất tử. Các câu chuyện về các nhiệm vụ khó khăn và chiến thắng của Heracles đã truyền cảm hứng và trở thành một phần quan trọng của di sản văn hóa Hy Lạp cổ đại.

Hãy cùng TheGioiCoTich.vn khám phá “12 chiến công của Heracles” qua những câu chuyện đầy phiêu lưu và hấp dẫn dưới đây của chàng dũng sĩ Heracles.

Chương I – Đứa con của một giấc mơ

“Đứa con của một giấc mơ” trong “12 chiến công của Heracles”, kể về sự ra đời của Heracles, khi thần Zeus giả làm Amphitryon quyến rũ nàng Alcmene xinh đẹp.

Thủa ấy, thần Zeus (tiếng Hy Lạp cổ: Ζεύς) sống ở đỉnh Olympus (tiếng Hy Lạp cổ: Όλυμπος) thống trị toàn vũ trụ. Từ trên ngai vàng cao ngất, ngài thường nghiêng mình nhìn xuống thế gian và hay xuống thăm họ. Thường thì ngài mang lại cho họ những điều tốt lành song thi thoảng cũng gây những nỗi thống khổ cho con người. Ngài luôn tham dự vào các mâu thuẫn, chiến tranh và tình yêu của con người.

Vì Zeus buồn chán ư? Hay là ngài ghen tỵ với con người và với sự không toàn vẹn của họ?

Chẳng ai có thể trả lời được câu hỏi đó, nhưng tất cả đều biết rằng cơn thịnh nộ của Zeus thật đáng sợ. Vị thần cao nhất trong số các vị thần, chúa tể của toàn vũ trụ, sở hữu biết bao quyền lực. Ngài thi hành chúng với biết bao tính toán khôn ngoan và vẻ thông minh của một vị thần có thể có được. Và ngài không chấp nhận có ai đó chống lại ngài. Một ngày kia, truyền thuyết thuật lại rằng: hình như Zeus muốn đi tìm hiểu thêm về cuộc sống của con người và đúng là muốn hòa nhập với họ một thời gian.

Ở hạ giới, vị tướng Amphitryon (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀμφιτρύων) kiêu hãnh vì đã có tất cả cho một cuộc sống hạnh phúc.

Trong thành phố Thebes (tiếng Hy Lạp cổ: Θήβα) tươi đẹp mà vua trị vì là Creon (tiếng Hy Lạp cổ: Κρέων), Amphitryon đã cưới người đẹp Alcmene (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀλκμήνη), con gái của vua Mycenae (tiếng Hy Lạp cổ: Μυκῆναι) láng giềng.

Vị tướng đang chuẩn bị dẫn quân ra trận để chứng tỏ giá trị của mình. Ngài vui vẻ từ biệt Alcmene và hẹn sớm chiến thắng trở về. Nguyện vọng của ngài là khi ca khúc khải hoàn vang lên sẽ là lúc ngài có một đứa con trai nối nghiệp mình, dẫn đầu đoàn quân Thebes.

Vậy là Amphitryon cùng các chiến binh của mình ra trận. Còn Alcmene lúc về lâu đài, sống khép mình trong hy vọng một ngày tới chồng nàng sẽ trở về. Nàng cũng mong muốn mau chóng sinh cho Amphitryon một đứa con cũng tài năng như cha nó vậy.

Nhiều tuần lễ trôi qua, Amphitryon vẫn mải mê chiến trận. Alcmene vẫn đợi chờ. Một mình trong lâu đài rộng mênh mông, đôi khi nàng lo sợ Amphitryon không trở về nữa, sợ chồng nàng sẽ tử trận, mặc dù Amphitryon thừa dũng cảm và đội quân dưới quyền chỉ huy của ngài rất có kỷ luật và giỏi giang.

Nàng cứ suy nghĩ và buồn rầu lo lắng: “Nếu các vị thần không giúp sức thì dân thành Thebes sẽ ra sao? Nếu họ đã quyết định là Amphitryon phải chết?”. Thỉnh thoảng trong những giấc mơ, Alcmene mơ thấy chồng mình nằm chết trong một bể máu, thân thể dập nát do hàng ngàn vết thương. Thời gian càng trôi, Alcmene càng lo sợ mỗi khi phải lên giường đi ngủ, nhất là lại trong căn phòng của hai vợ chồng. Trong khi đó, màn đêm vẫn buông mái tóc huyền diệu xuống thành phố Thebes xinh đẹp.

Một đêm, hạnh phúc đến với Alcmene khi nàng không có ý chờ đợi. Amphitryon hiện ra trong căn phòng vẫn mặc nguyên bộ chiến phục, vũ khí vẫn cầm trên tay, gương mặt bám đầy bụi nhưng rạng rỡ. Nét mặt vẫn bình yên như không hề có chút mệt mỏi nào đọng lại sau nhiều tháng ngày chiến trận. Ngài lặng lẽ không nói một lời.

Lúc đó ngoài trời ánh trăng chiếu sáng lấp lánh đôi mắt dịu dàng của Alcmene, tưởng như trong giấc mơ. Amphitryon cởi bỏ quân phục và đến bên người vợ yêu.

Đêm tối thật dịu dàng đến nỗi Alcmene phải ngạc nhiên. Khi nàng thức giấc, Alcmene không hề thấy Amphitryon đâu cả, cũng không có dấu vết gì chứng tỏ chàng đã ở đây đêm qua.

Phải chăng ngài đã lấy lại vũ khí và mặc chiến phục để lên đường từ sáng sớm? Có lẽ nào ngài chỉ có thể ở bên vợ vài giờ rồi lại ra chiến trận?

Những ý nghĩ này thật phi lý! Một vị đại tướng không bao giờ rời bỏ chiến trận và binh lính của mình trong khi chiến đấu. Alcmene biết điều đó, nhưng nàng không thể giải thích được câu chuyện xảy ra đêm qua.

Càng suy nghĩ, nàng lại càng cảm thấy sự thật quá phũ phàng. Nàng đã mơ thấy Amphitryon trở về. Nàng đã mơ tưởng để xua đi những ác mộng, song Amphitryon vẫn bặt vô âm tín. Hay là chàng chết rồi, Alcmene đã nghĩ như vậy. Giấc mơ ấy có thể là điềm báo của các thần linh hoặc cũng có thể là một thông điệp của chính vị chúa tể Zeus.

Dần dần, nỗi đau đớn hình thành rõ rệt trong nàng, Alcmene rời khỏi giường và bắt đầu khóc.

Ngọn gió sớm mai dịu dàng qua cửa sổ len vào căn phòng. Rồi bên ngoài vang dậy tiếng tung hô. Tiếng binh khí va chạm, tiếng bước chân nặng nề của vó ngựa vang lại từ rất gần.

Alcmene tin rằng mình sẽ điên lên mất. Đúng là các vị thần đang làm khổ nàng.

– Alcmene! Alcmene!

Giọng nói thân quen ấy. Không! Vẫn là cơn ác mộng. Đây không thể nào là sự thật!

– Alcmene!

Đây hoàn toàn không phải là ác mộng, không phải là giấc mơ, mà là giọng nói hân hoan của Amphitryon, chồng nàng, người chiến binh cao quý. Ngài bất chợt trở về ngay bên cạnh nàng, vẻ mệt mỏi và quần áo bám đầy bụi đường, chẳng giống hình ảnh trong giấc mơ của nàng đêm trước.

– Ôi Amphitryon!… Em hạnh phúc biết mấy!

Họ ôm hôn nhau trong tiếng tung hô vang dội của cư dân thành Thebes đang nổi lên ngoài phố, đang chào đón chiến thắng của vị đại tướng và đoàn quân của ngài.

Đêm sau nữa vẫn là hiện thực. Amphitryon ngủ cạnh Alcmene và không rời khỏi nàng cho tới tận sáng hôm sau.

Hạnh phúc ngập tràn trong lâu đài của Amphitryon nhiều tháng sau đó. Rồi tới một ngày, Alcmene cho ra đời một đứa con trai mà nàng hằng ao ước.

Cậu bé xinh đẹp khỏe mạnh ấy được đặt tên là Heracles (Hay còn gọi là Hercules. Tiếng Hy Lạp cổ: Ἡρακλῆς). Nhưng vài phút sau, Alcmene lại sinh thêm đứa con thứ hai, trông yếu đuối mong manh hơn, được đặt tên là Iphicles (tiếng Hy Lạp cổ: Ἰφικλῆς). Amphitryon hết sức mãn nguyện: có những hai cậu con trai! Tiếng tăm thành Thebes rồi sẽ còn rạng danh nữa trên toàn cõi Hy Lạp.

Nhưng than ôi! Sự vui mừng này không thoát khỏi tầm mắt của các vị thần. Hera (tiếng Hy Lạp cổ: Ἥρα) là vợ của Zeus biết rằng Heracles không phải là con của Amphitryon mà chính là con trai Zeus, người đã quyến rũ nàng Alcmene vào đêm trước ngày mà vị tướng thành Thebes trở về. Vì thế Hera quyết định sẽ tỏ rõ quyền lực của mình với tướng Amphitryon và người vợ yếu đuối của chàng.

Đúng là Alcmene không hề mộng mị: Zeus đã hóa thân thành Amphitryon và đi vào phòng Alcmene để quyến rũ nàng. Hera quyết định trả thù: bà sẽ giết Heracles và thành Thebes sẽ không còn ngự trị ở Hy Lạp nữa.

Hera chiếm giữ nhiều quyền lực. Bà sẵn sàng làm bất cứ việc gì để nguôi cơn giận và ghen tuông của mình. Nếu Zeus có những cuộc tình cháy bỏng khác, Hera không hề do dự khi mang đến cho gia đình những phụ nữ kia nỗi đau đớn khôn cùng.

Ít ngày sau khi cặp song sinh chào đời, Hera quyết định trả thù khi mọi người trong lâu đài Amphitryon đang chìm trong giấc ngủ. Hai con rắn được Hera sai khiến, nhẹ nhàng trườn vào phòng hai cậu bé, tiến sát lại chiếc nôi. Heracles và Iphicles vẫn say sưa ngủ, không hề hay biết thảm họa đang đến gần.

Hai con rắn trườn vào trong nôi và thực hiện lời nguyền ác độc. Chúng bắt đầu quấn quanh người Iphicles và siết chặt lại.

Iphicles kêu thét lên, tiếng kêu đã đánh thức anh của cậu dậy. Heracles, ngay tức thì, với sức mạnh phi thường của mình đã cứu người em khỏi vòng siết của hai con rắn đáng sợ. Trong khi Iphicles vừa khóc vừa lăn lộn thì Heracles đã bóp chết hai con rắn.

Ngạc nhiên vì tiếng kêu của Iphicles, Amphitryon và Alcmene vội vã tới phòng hai con trai.

Cảnh tượng trước mắt khiến họ kinh ngạc, không thốt lên được một lời. Ở một đầu nôi, Iphicles vẫn kêu khóc thảm thiết vì sợ hãi. Còn đầu kia, Heracles đang ngồi, trong tay là hai con rắn mềm nhũn, bất động. Cậu đang cười ha hả.

Cả Amphitryon và Alcmene chợt hiểu rằng thần thánh đã ban cho Heracles một sức mạnh phi thường. Và họ biết, Heracles sẽ có một tương lai rạng rỡ và chắc chắn, cậu sẽ có được nhiều khả năng siêu việt.

Amphitryon bồng Heracles lên tay, lòng tràn ngập niềm vui và kiêu hãnh. Người con trai cả của ngài sẽ trở thành một chiến binh vĩ đại, sẽ làm thành Thebes rạng danh vào bậc nhất, sẽ khiến cho vua Creon cha ngài hết sức mãn.nguyện. Amphitryon hy vọng được thấy con mình tranh tài với các vị thần.

Vừa dỗ dành cậu bé Iphicles yếu đuối đang khóc ti tỉ, Alcmene vừa nghĩ tới giấc mơ đêm trước khi Amphitryon trở về. Nàng chắc rằng Heracles là con của một vị thần. Có thể Heracles sẽ có một tương lai khác thường, nhưng Alcmene hiểu rằng điều ấy rồi sẽ phải trả bằng một giá đắt. Liệu các vị thần sẽ giáng bao nhiêu tai họa xuống dân thành Thebes? Phải chăng họ đã chọn thành Thebes để gây mối bất hòa với cậu bé này?

Có ẩn ý gì của thần linh phía sau sự chào đời của Heracles?

Alcmene nhìn Amphitryon và thầm nghĩ:

Hẳn là chàng không ngờ rằng mây đen đang bao phủ trên đầu hai đứa nhỏ. Nàng không dám kể cho chồng nghe chuyện đêm hôm ấy. Song vài ngày nữa, có lẽ sẽ có lúc thích hợp để nàng thổ lộ với chồng những dự đoán của mình.

Chương II – Tuổi thơ bi thảm của một anh hùng

“Tuổi thơ bi thảm của một anh hùng” là chương thứ II trong câu chuyện “12 chiến công của Heracles”. Nội dung phần này kể về những đau khổ và dằn vặt mà Heracles phải chịu đựng khi chàng mất đi người cha đáng kính trong cuộc chiến giữa người người Minyans vời thành Thebes. Kết thúc cuộc chiến, Heracles bị nữ thần Hera trả thù một cách hết sức tàn nhẫn, đó là khiến cho chàng trở lên điên loạn rồi tự tay thảm sát cả gia đình của mình.

Năm tháng cứ trôi qua mà Alcmene vẫn không dám thổ lộ điều bí mật với chồng. Vị tướng của thành Thebes dốc hết sức lực dạy dỗ rèn luyện cho con trai Heracles, cậu bé sớm có những tài năng phi thường.

Đích thân ngài dạy cho Heracles cưỡi ngựa và điều khiển xe. Hơn thế, với mỗi môn học quan trọng, ngài mời về cho con một ông thầy giỏi. Heracles được dạy dỗ chu đáo nên sớm thông thạo các môn đấu vật, kỹ thuật sử dụng binh khí và bắn cung.

Heracles còn được học nhạc, học đánh đàn lia, những môn học không khiến cậu thích thú.

Vậy nên, một hôm, thầy dạy nhạc có trách móc cậu thiếu chuyên cần, cậu đã nổi giận ném cây đàn vào đầu ông giáo và vị này chết ngay tức khắc.

Sự cố đau lòng này khẳng định sức mạnh vô song của cậu Heracles trẻ tuổi. Bị buộc tội sát nhân, Heracles bị đưa ra xét xử. Amphitryon quyết định cho cậu rời xa thành Thebes để tránh mọi tai họa. Vả lại, ngài nghĩ rằng: Heracles sẽ phát triển hơn nữa nếu sống ở một không gian rộng lớn, làm những công việc nhọc nhằn đòi hỏi sức khỏe tốt, tinh thần kiên cường và sự khéo léo.

Amphitryon bèn giao cho con trông coi đàn súc vật trên núi cùng với những người chăn thú của mình.

Đúng là vị tướng thành Thebes đã có một quyết định tuyệt vời, bởi Heracles ngày càng khỏe mạnh, giỏi giang và dũng cảm hơn. Cậu chẳng còn lạ lẫm gì với cung tên và mũi lao nữa và cậu đã trở thành một võ sĩ đấu vật tuyệt vời. Sự dũng cảm của Heracles được tất cả những người chăn thú trong vùng khâm phục. Không lâu sau có một sự việc xảy ra đã chứng minh điều này.

Khi Heracles vừa tròn mười tám tuổi, ở vùng Amphitryon nuôi đàn gia súc xuất hiện một con sư tử to lớn và hung dữ khác thường. Chỉ trong vài ngày, nó đã giết chết hàng loạt gia súc. Heracles bèn ẩn nấp trong núi rình con thú hoang độc ác. Khi con sư tử xuất hiện, Heracles bèn lao tới, khống chế và chỉ bằng một nhát dao, chàng đã kết liễu nó dễ dàng như bóp chết hai con rắn ngay từ khi còn nằm trong nôi.

Sau chiến công kỳ lạ này tiếng tăm của Heracles vang dội khắp đất nước. Chàng quyết định trở về vì thành Thebes đang nguy nan.

Heracles không được ở lại trong lâu đài. Amphitryon đang sửa soạn đối đầu với một kẻ thù của thành Thebes. Đó là Erginos (tiếng Hy Lạp cổ: Ἐργῖνος), vị hoàng đế của người Minyans (tiếng Hy Lạp cổ: Μινύες) thành Orchomenus (tiếng Hy Lạp cổ: Ὀρχομενός). Heracles trở về thật đúng lúc vì Amphitryon đang cần hai con trai giúp sức mình trong cuộc chiến đấu. Dù yếu đuối, Iphicles cũng đã trở thành một chàng trai trẻ dũng mãnh. Dù kém giỏi giang hơn anh trai nhưng Iphicles vẫn nhận được sự giáo dục như anh của mình. Và chàng cũng không có gì phải hổ thẹn trong công cuộc chuẩn bị cho cuộc đánh lớn sắp tới.

Còn Alcmene thì không quen với chiến tranh.

Nàng nhìn chồng và hai con ra chiến trận, lòng đầy lo sợ: có thể một người trong số họ không bao giờ trở về nữa.

Sự thật quả nhiên như vậy. Dân thành Thebes đã mất đi vị đại tướng tài ba của mình.

Thấy Amphitryon chết, dân Minyans tưởng là mình đã thắng trận. Vì mất đi vị chỉ huy khác nào gà con mất mẹ. Quả là dân Minyans hơi vội vã khi không nhìn thấy khả năng tiềm tàng của Heracles.

Đau đớn và giận dữ khôn cùng, Heracles mạnh dạn thay thế vị trí chỉ huy của cha, dẫn đầu đoàn quân tiến tới vây hãm thành Orchomenus, nơi Erginos ẩn náu. Chỉ trong một đêm, họ đã vượt thành và thiêu rụi cả thành phố.

Erginos thất bại nặng nề.

Chiến thắng của Heracles không thể xóa đi nỗi đau mất cha và sự đau buồn của mẹ. Nhìn thấy Alcmene vật vã đau đớn, Heracles cảm thấy mình bất lực. Từ khi trở về thành Thebes, tính khí của chàng thay đổi hẳn và ngày càng hay cau có, gắt gỏng. Ngày xưa nếu Heracles là người vui vẻ, nhiệt huyết với tất cả những gì cuộc đời mang lại cho chàng thì giờ đây, chàng chỉ chìm trong những nỗi trầm tư u buồn.

Năm tháng dần trôi. Ngay cả dự định hôn nhân với Megara (tiếng Hy Lạp cổ: Μεγάρα), con gái vua Creon cũng chẳng đem lại niềm vui sống cho chàng. Dường như các vị thần đã quyết định thử thách chàng nhiều hơn nữa. Và dường như, có một cái gì đó trong tâm hồn chàng đã ra đi cùng với cái chết của người cha.

Tuy vậy, lễ cưới của chàng vẫn rất vui vẻ.

Những năm sau đó là khoảng thời gian mang đến cho chàng sự cân bằng trở lại, giúp chàng quên đi những giây phút đớn đau của quá khứ.

Megara nhanh chóng sinh cho chàng ba cậu con trai khỏe mạnh hệt như Heracles thuở nhỏ. Bọn nhóc thường nô đùa với Iolaus (tiếng Hy Lạp cổ: Ἰόλαος) là con của Iphicles. Trong khu vườn rộng nhà Heracles và Megara, tiếng cười, tiếng nô đùa vui vẻ của mấy anh em vang lên suốt ngày.

Hera vẫn chưa quên mối hận của mình. Bởi vì Heracles vẫn còn sống sót sau mối hiểm nguy với hai con rắn, bởi vì Zeus cha chàng đã ban cho chàng sức mạnh phi thường nên Hera chỉ còn một mưu kế. Bà rắp tâm thi hành một thủ đoạn hết sức đáng sợ: Đó là buộc Heracles phải đau đớn bởi chính những người thân của mình.

Bởi thế, nhân một bữa tiệc được tổ chức trong lâu đài của Heracles ở thành Thebes, Hera phái một người đàn bà đến đó. Đó là một sinh vật đội lốt người, có khả năng làm cho người khác bị điên loạn. Nấp kỹ sau cây cột ở đại sảnh, người đàn bà quỷ quyết phóng tia mắt về phía Heracles. Trong nháy mắt, chàng trở nên hung dữ, điên loạn.

Heracles đứng bật dậy khỏi chiếc ghế chủ trì bữa tiệc của mình rồi chỉ tay vào mặt vợ con mà hét lên:

– Chúng là ai? Chúng là ai thế?

Megara kinh ngạc trước sự thay đổi đột ngột của chồng, nàng không tài nào hiểu được nguyên nhân. Megara bèn ra hiệu cho các con lại gần cha, hy vọng Heracles sẽ nhận ra chúng và bình tâm trở lại.

Nhưng không ngờ Heracles lập tức giương cung và nhắm mũi tên về phía các con và vào người vợ đang cố lao ra che chở cho đứa bé nhất.

Vợ và các con chàng chết ngay lập tức. Tấn bi kịch khủng khiếp do Hera bày ra đã khép lại.

Heracles chợt tỉnh và hiểu ra hành động tàn bạo của mình.

Suốt đêm, chàng khóc than thương tiếc những người thân yêu và nguyền rủa các vị thần đã mang đến cho chàng một số phận nghiệt ngã như vậy. Hình ảnh người thầy xấu số bị chàng vô tình giết chết hồi bé cứ trở đi trở lại trong trí óc chàng. Chàng cứ than khóc và ân hận không nguôi. Sáng sớm hôm sau, chàng thấy không còn giải pháp nào nữa ngoài việc phải ra đi.

Heracles từ biệt thành Thebes và đến hỏi ý kiến nhà tiên tri Delphi (tiếng Hy Lạp cổ: Δελφοί) mong có cách giải thoát đau khổ, tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn.

Nhà tiên tri lắng nghe rồi khuyên chàng tới Tiryns (tiếng Hy Lạp cổ: Τίρυνς) phục vụ cho vua Eurystheus (tiếng Hy Lạp cổ: Εὐρυσθεύς). Và chàng phải tuyệt đối chấp hành những đòi hỏi của nhà vua.

Khi nhà vua Eurystheus nhận chàng, những lời nói của ông đều là của Hera cả. Bà ta vẫn tiếp tục theo đuổi âm mưu hãm hại chàng. Heracles sẽ phải thực hiện một sứ mệnh mà không một người trần mắt thịt nào có thể thực hiện được. Và sau đây là mười hai cuộc chinh phục của chàng.

Chương III – Con sư tử Nemea

“Con sư tử Nemea” là chiến công đầu tiên lập được trong 12 chiến công của Heracles. Ở phần này, chàng theo lệnh của Eurystheus đi giết con sử tử Nemea – một con sử tử hung tợn mà chưa người nào trước đó hạ được.

Eurystheus nói:

– Ngươi không biết được sức mạnh của mình và khinh thường luật pháp. Ngươi đã giết vợ và ba đứa con yêu quý của ngươi. Nhà tiên tri đã cử ngươi tới đây để phục tùng lệnh của ta đến khi nào ngươi nhận được sự tha thứ của những người đã khuất và được các thần xóa bỏ tội lỗi. Nhưng ngươi còn chưa biết mình là ai, đúng không? Heracles! Ngươi hãy tự nhìn lại mình và nghe ta nói đây, hãy nghe rõ nhiệm vụ mà ta đòi hỏi ngươi phải thực hiện!

Eurystheus đột ngột ngừng lại, như để tận hưởng cảm giác thích thú khi thấy một người luôn tự hào về sức mạnh vô địch đang quỳ lạy một cách thảm hại dưới chân mình. Chính là Hera đã truyền cho Eurystheus những lời nói đó cùng lòng căm thù của mình.

Cương quyết chuộc lại những lỗi lầm đã phạm, Heracles chăm chú lắng nghe lệnh của Eurystheus.

Vị vua thành Tiryns đẩy ngai vàng của mình sang một bên với vẻ trịch thượng và cười ngạo nghễ. Bởi ông biết rằng dù Heracles có giỏi giang đến mấy cũng không thể nào sống sót nổi qua những thử thách mà ông sắp đưa ra.

– Nhìn lại mình đi Heracles! Ngươi chẳng phải là thần, cũng sẽ không là con người nữa, mà là một tên nô lệ và chẳng bao lâu nữa sẽ chỉ là một con thú không còn gì để mất!

Heracles vẫn im lặng. Đột nhiên chàng ngẩng lên và ngạc nhiên nhận thấy trong đôi mắt vàng của Eurystheus sự giận dữ khôn cùng, như rồ dại, một thái độ làm chàng không thể nào hiểu nổi.

Heracles đã tuân theo lời nhà tiên tri Delphi và phục tùng tất cả mệnh lệnh mà Eurystheus trút xuống đầu mình như những mũi tên tẩm thuốc độc nhuốm lòng hận thù. Chàng nói:

– Hỡi Eurystheus! Liệu tôi phải làm gì để phục vụ ngài và làm ngài nguôi cơn nóng giận?

Eurystheus cứ cười khanh khách. Ông không nhận ra trong lời nói của Heracles có ngụ ý mỉa mai nên cứ tận hưởng cảm giác chiến thắng.

Với tất cả lòng kiêu ngạo và cơn giận mà Hera đã truyền cho Eurystheus, ông vội vàng bảo

– Trong một khu rừng tối tăm ở xứ Argolis (tiếng Hy Lap: Ἀργολίς) có một con sư tử Nemea (tiếng Hy Lap: Νεμέα). Hãy giết chết nó và đem xác về đây cho ta.

Một con sư tử?… Heracles chợt nghĩ đến con sư tử đã bị chàng hạ gục khi chàng mười tám tuổi.

Dường như Eurystheus biết được suy nghĩ của chàng nên lập tức bảo:

– Đúng thế! Nhưng con sư tử này hung dữ nhất trên trái đất. Rồi ngươi sẽ thấy… Ngươi sẽ thấy sọ người lăn lóc trên những đám cỏ thưa thớt nơi con sư tử ẩn náu. Đó là sọ của những người có ý định giết con sư tử hung dữ này. Con quái vật hung tợn này vừa sức với ngươi lắm đó. Và bây giờ hãy lên đường đi!

Heracles chưa bao giờ biết sợ. Những lời nói sau cùng của Eurystheus không làm cho chàng nao núng chút nào. Một quái vật chẳng qua chỉ xuất phát từ óc tưởng tượng của những kẻ nhát gan mà thôi.

Con sư tử Nemea này đã nổi tiếng từ lâu rồi, chàng biết thế. Nhưng với chàng nó chỉ là kẻ thù mà chàng phải mau tiêu diệt để nhanh chóng báo công với Eurystheus và làm hài lòng nhà tiên tri Delphi. Không chần chừ gì nữa, Heracles lên đường ngay, chỉ mang theo cung, tên và kiếm.

Ròng rã nhiều ngày trên đất Argolis, cuối cùng chàng đã tới được lãnh địa Nemea.

Núi rừng theo nhau chạy dài tít tắp tới tận chân trời. Lãnh địa của sư tử Nemea dường như kéo dài vô tận. Heracles băn khoăn không biết làm sao tìm được kẻ thù trong khu rừng mênh mông này. Nó ẩn náu ở chân núi nào? Hang ổ nó ở đâu?

Nhiều ngày trôi qua, Heracles dò dẫm khắp nơi trên mảnh đất này. Chàng trèo lên không biết bao nhiêu ngọn núi và sục sạo khắp các ngóc ngách để tìm dấu vết con quái vật. Tuy thế chàng không hề mỏi mệt hay nản chí. Nhưng càng ngày Heracles càng nhận thấy rõ ràng cơ may khám phá ra dấu vết con sư tử thật ít ỏi và chàng đành trông chờ vào sự ngẫu nhiên.

Một chiều nọ, khi tới rừng cây ô liu mọc ven đồi, chàng dừng lại và quyết định chờ đợi đối thủ ở đó. Hẳn cuối cùng thì con sư tử cũng phải có lúc qua đây.

Rồi chàng chốt lại trong rừng hơn một tháng.

Ngày đêm chàng rình rập bóng dáng con sư tử.

Chàng ngủ rất ít và dành phần nhiều thời gian để nghe ngóng động tĩnh xem có phải là con vật hay không. Chàng luôn thủ sẵn vũ khí bên mình.

Trong cuộc chiến đấu với sư tử sắp tới, cung hay là gươm thích hợp hơn? Cẩn thận hơn, chàng còn thêm vào đó một chiếc chùy gỗ làm từ lõi cây ô liu đại thụ.

Lòng kiên nhẫn của Heracles được đền đáp xứng đáng. Chàng đột nhiên nhận ra con sư tử Nemea đang ở quả đồi đối diện. Đúng là Eurystheus đã không cường điệu chút nào: Heracles chưa bao giờ thấy một con vật nào như thế.

Sư tử tiến lên phía trước với những bước đi chậm chạp, nặng nề. Những cái chân to tướng của nó phủ một lớp lông dày. Máu của một “nạn nhân” xấu số nào đó đang nhỏ giọt từ chiếc lưỡi khổng lồ của nó. Con sư tử vừa ăn uống no nê và đang tìm chỗ nắng ấm để liếm láp và nghỉ ngơi.

Từ chỗ nấp Heracles biết con vật không thể nhìn thấy mình. Nó có vẻ chẳng hề quan tâm đến một sự hiện diện lạ thường nào cả. Nó tiếp tục bước chậm rãi với dáng vẻ của một con vật đang no nê, đang tận hưởng sự khoái trá không kiềm chế được.

Heracles biết mình phải tận dụng cơ hội này để tiêu diệt con vật, một cơ hội tấn công bất ngờ. Chàng nhanh chóng cầm cung lắp tên và nhắm vào con vật. Mũi tên xé gió lao đi.

Nhưng Heracles hết sức kinh ngạc, mũi tên chỉ chạm nhẹ vào con vật, dường như không gây nên một phản ứng nào, rồi rơi xuống cỏ. Heracles tiếp tục mũi tên thứ hai, thứ ba trước khi con sư tử phát hiện ra. Nhưng những mũi tên này cũng chịu chung số phận với mũi tên đầu.

Mặc dù ăn uống no nê và thân hình nặng nề, con sư tử Nemea vẫn lao tới với một tốc độ kinh hoàng. Với vài bước nhảy, nó đã tới gần Heracles, và Heracles cũng đã sẵn sàng với thanh gươm lăm lăm trong tay. Chàng đâm liền mấy nhát vào bụng con vật nhưng lưỡi gươm giống như chạm phải một khối đá, nó như muốn gãy.

Con vật lao đến chồm lên người Heracles, chàng mau chóng né sang một bên và tóm lấy cái chùy. Trong cơn cuồng nộ mãnh liệt, chàng vụt tới tấp lên mình sư tử. Choáng váng, con vật không còn dữ tợn nữa. Heracles liên tiếp bồi cho nó những cú đánh trời giáng. Rồi khi chiếc chùy đã gãy nát, chàng dùng luôn tay không bóp chặt cổ họng con thú dữ.

Một tiếng rú khản đục như đến từ trong lòng đất vang lên, giữa núi đồi vùng Nemea. Con vật giãy giụa đuối sức dần dần, máu mồm hộc ra.

Nó chết hẳn.

Heracles chiêm ngưỡng chiến công của mình và mỉm cười. Trận đánh thật ác liệt, nhưng chàng đã hoàn thành nhiệm vụ. Eurystheus và nhà tiên tri sẽ rất thỏa mãn. Bây giờ chỉ còn mỗi việc là lột lấy bộ da con sư tử mang về.

Nhưng thanh kiếm gãy và những mũi tên không tài nào xẻ được bộ da dày khủng khiếp này. Tuy nhiên Heracles phải lột da con sư tử cho bằng được vì Eurystheus phải trông thấy được bộ da này. Heracles đi tìm hòn đá cứng nhất để mài sắc lưỡi gươm.

Sau đó, với lưỡi gươm sắc bén, Heracles tiếp tục công việc, nhưng chẳng có kết quả gì. Chàng ngồi bệt xuống cạnh con sư tử, chán ngán: “Làm sao mà đưa được con sư tử to lớn thế này về Tiryns?”. Dù khỏe đến mấy, Heracles cũng biết rằng mình không thể nào mang được con vật khổng lồ này về. Chỉ riêng mấy cái chân và bộ móng vuốt của nó cũng đã to lớn khác thường rồi.

Chàng buộc phải lột da nó mang về thôi. ánh mắt chàng dừng lại nơi bộ móng vuốt nhọn và sắc. Thật là những vũ khí tuyệt vời.

Đôi bàn tay xây xước vì những cố gắng quá mức. Cuối cùng Heracles cũng lột bỏ được bộ móng vuốt sắc nhọn và cứng ở bàn chân trước của con thú. Với đồ nghề lạ lùng này cuối cùng Heracles cũng lột được bộ da khổng lồ của con sư tử. Chàng nghỉ một lát lấy lại sức lực, tận hưởng chiến thắng và niềm vui khi đã nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ. Heracles cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn trước những bi kịch của quá khứ.

Chàng vác bộ da thú khổng lồ lên vai và xuống núi. Tới thung lũng có dòng suối nhỏ chạy qua, Heracles dừng lại và lau chùi bộ da thú bằng dòng nước mát. Công việc xong xuôi, chàng khoác bộ da thú lên người. Quả là trông chàng như một con sư tử thực thụ. Rồi chàng lên đường trở về.

Chàng không hề hay biết rằng từ đỉnh Olympus, Zeus, cha chàng, đã trông thấy toàn bộ sự việc. Là chúa tể của muôn thần, người hết sức hãnh diện về trí thông minh và lòng dũng cảm của con trai, người con tài ba đã làm cho sự kiện trở nên bất tử, và Zeus bổ sung thêm một ngôi sao mới, ngôi sao số phận của Sư tử, lên bầu trời.

Đường về nhà mới ngắn làm sao! Heracles đi nhanh hơn lúc khởi hành.

Thời gian chàng vắng nhà khá lâu khiến Eurystheus nghĩ rằng chàng, cũng như bao người khác đã đụng độ với sư tử Nemea, đã gục ngã trước bộ răng nhọn và móng vuốt của nó. Eurystheus thầm nghĩ rằng mình đã loại bỏ được đối thủ, người có thể một ngày nào đó sẽ chiếm ngôi báu.

Nhưng tiếng đồn lan khắp thành: Heracles đã trở về, khoác bộ da sư tử Nemea, bộ da to lớn khác thường ấy khiến cho Heracles trở thành người dũng sĩ vô địch.

Ban đầu, Eurystheus không tin và cho rằng đó chẳng qua chỉ là sự phóng đại về một tay du côn nào đó. Nhưng tiếng đồn đã tới tận cung điện, bất kể người hầu nào cũng hoan hỉ báo tin Heracles thắng trận trở về.

Cuối cùng thì Eurystheus cũng phải công nhận sự thật hiển nhiên, song hắn vẫn ngoan cố cho rằng Heracles đã mang về tấm da của một con sư tử khác, hoàn toàn không phải của con quái vật đã giết chết bao nhiêu thợ săn tài ba và đầy kinh nghiệm.

Hắn quyết định ra trước lâu đài đợi chàng và tin chắc rằng với lý lẽ ấy mình sẽ chiến thắng.

Một nụ cười mỉa mai hiện lên gương mặt khi hắn trông thấy bóng dáng người anh hùng.đang được dân chúng cổ vũ nồng nhiệt. Đúng thế, Heracles đã hoàn toàn chiến thắng sư tử Nemea.

Chàng tiến lên gần bậc tam cấp của lâu đài, phía trên đó, vị vua thành Tiryns đang run rẩy tái xanh mặt mày. Chàng cởi bộ da sư tử và ném xuống chân Eurystheus. Lão ta khiếp đảm bỏ chạy về phòng và khóa cửa lại.

Heracles ngồi chờ lão ta quay trở lại công nhận chiến thắng của mình. Và chờ đợi những nhiệm vụ tiếp theo. Bởi vì nhà tiên tri đã nói anh phải phục vụ vô điều kiện và phải thỏa mãn tất cả những mệnh lệnh của Eurystheus.

Nhưng Eurystheus không dám bén mảng tới.

Lão sai vị cố vấn Copreus đến gặp Heracles.

Copreus (tiếng Hy Lạp cổ: Κοπρεύς) bước tới với tất cả sự hãnh diện về chức vụ của mình. Nhưng những lời lẽ ông ta được lệnh Eurystheus truyền lại cho Heracles thì hết sức nực cười:

– Đức vua của chúng ta yêu cầu ngươi, phải đặt những gì liên quan đến công việc ở cổng thành, không được xuất hiện trước mặt vua. Ngài đã ủy thác cho ta truyền lại cho ngươi tất cả những công việc ngươi phải làm. Đừng chần chừ gì nữa, hãy lên đường đi. Từ nay ngươi chẳng còn được nghỉ ngơi gì nữa nếu chưa hoàn thành tất cả công việc mà đức vua Eurystheus đã giao phó cho ngươi. Trước tiên, phải chiến thắng cho được con chó đầu rắn Lerna. Nếu thắng được nó, hãy quay về đây gặp ta. Bây giờ thì ngươi hãy đi đi, để cho đức vua được nghỉ ngơi.

Copreus chẳng thèm nghe Heracles nói. Vừa dứt lời, hắn đã quay vào lâu đài. Heracles nhận thấy bước chân hắn vội vã, như thể hắn lo lắng có gì nguy hiểm đến tính mạng.

Chương IV – Con chó đầu rắn Lerna

“Con chó đầu rắn Lerna” là nhiệm vụ khó khăn thứ hai mà Eurystheus giao cho Heracles, bởi con chó đầu rắn Lerna là một quái vật to lớn, nhiều đầu, chứa lượng chất độc cực mạnh. Chàng đã cùng người cháu của mình là Iolaus – con trai của Iphicles thực hiện điều đó.

Sau khi giết chết con quái vật, Heracles tẩm những mũi tên vào máu của nó, tạo thành một thứ vũ khí lợi hại với chất độc cực mạnh để có thể giúp mình trong tương lai.

Vừa ra khỏi cổng thành Tiryns, Heracles đã chuẩn bị ngay cho cuộc chiến sắp tới.

Trong vương quốc của Eurystheus, ai ai cũng nghe nói đến con chó đầu rắn Lerna. Dân thành Tiryns vẫn tin chắc rằng nó còn dữ tợn hơn cả sư tử Nemea.

Heracles không sợ phải chạm trán với con chó đầu rắn. Vấn đề không phải là một con quái vật dị hình thì có nhiều sức mạnh. Con chó đầu rắn không hề giống bất cứ một động vật nào mà con người được biết: Nó có thân hình của một con chó khổng lồ với cái đầu rắn ngất ngưởng ở trên.

Một già lão trong thành đã thề trước mặt Heracles rằng con quái vật này có những một trăm cái đầu. Một người khác thì lại bảo nó có năm đầu. Đa số còn lại thì bảo có chín cái đầu.

Nhưng từ chín cái đầu này luôn phả ra một thứ mùi xú uế có thể giết chết ngay bất cứ ai ngửi thấy. Và máu của nó có thể coi là độc dược mạnh nhất mà con người từng biết.

Heracles cũng biết rằng con chó đầu rắn này ẩn cư ở vùng đầm lầy Lerna, cách biển và thành Argos (tiếng Hy Lạp cổ: Ἄργος) chẳng bao xa. Ở đó, nó giấu mình rất kỹ khi đã quyết định tiêu diệt kẻ thù, hoặc bất chợt tấn công đàn gia súc trong vùng, phá hoại mùa màng, giết chết và hút máu bất cứ người hay vật nào trong tầm tay của nó. Người ta nói rằng nó là một con vật hết sức thông minh và khôn ngoan không gì sánh nổi, nó có trí tuệ của một vị thần.

Nó là hiện thân của sự hận thù và chết chóc.

Trong suốt một giờ đồng hồ, Heracles vừa đi vừa nghĩ ngợi mong tìm ra giải pháp có thể tiêu diệt được con quái vật ghê sợ này. Những bức thành Tiryns mờ khuất dần sau lưng chàng.

Trước mặt chàng, con đường đến Lerna như trải dài, trải dài mãi.

Mải chìm trong suy nghĩ, Heracles không nhận ra một thiếu niên đang chạy tới và vẫy gọi chàng rối rít. Lúc cách chàng chừng năm chục mét, cậu bé kêu váng lên:

– Bác Heracles! Bác Heracles ơi! Cháu Iolaus đây.

Heracles ngẩng lên. Đúng là Iolaus, con trai của Iphicles. Từ lâu lắm rồi chàng không gặp nó.

Cậu bé thay đổi khá nhanh, giờ đã ra dáng một chàng trai kiêu hãnh, với vóc dáng thật giống bác của nó, người mà nó luôn ngưỡng mộ.

– Chà! Iolaus đấy ư? – Bác không nhận ra cháu nữa đấy. – Chàng ôm hôn cháu và hỏi. – Cháu làm gì mà bỏ nhà tới đây?

– Cháu đi tìm bác. Cháu muốn đi với bác.

Cháu không muốn để bác một mình đương đầu với những công việc nguy hiểm này.

Iolaus có đôi mắt màu đen tinh anh, cái nhìn thật quyết đoán mạnh mẽ, khuôn mặt toát lên vẻ cương nghị.

– Làm sao cháu biết được những việc bác làm?

– Tất cả dân chúng đều biết mà bác. Ngay cả ở thành Thebes, ai cũng biết là Eurystheus đang gây áp lực đối với bác, đang muốn làm hại bác.

Heracles mỉm cười khi nghe những câu nói thơ ngây này. Chàng lại ôm hôn cháu lần nữa và hỏi thăm tin tức của cháu và thành Thebes.

Vừa nói, hai bác cháu vừa dấn bước trên đường đến Lerna. Sau mấy phút hưng phấn vui vẻ ban đầu, Heracles nhận ra đứa cháu thật gắn bó với mình. Chàng dừng lại.

– Iolaus nghe này! Bác muốn một mình bác thực hiện công việc này. Cháu không thể đi với bác. Nhà tiên tri xứ Delphi đã buộc bác phải theo lệnh của Eurystheus mới tìm thấy được sự thanh thản trong tâm hồn. Không ai có thể thay thế được địa vị của bác. Cháu có hiểu điều đó không?

– Cháu hiểu, bác Heracles. Nhưng cháu chỉ đề nghị được đi theo bác thôi, không hơn. Cháu muốn xem bác thi hành phận sự để học hỏi vài kinh nghiệm thôi mà.

Heracles mỉm cười trước sự thú nhận nửa vời đó. Chắc chắn là Iolaus muốn chiêm ngưỡng chàng lúc thực hiện nhiệm vụ, nhưng cũng có thể nói rằng nó cũng nóng lòng muốn đọ sức với những thế lực to lớn mà Heracles đã từng trải qua. Heracles yêu cháu biết bao nhiêu, và rất tự.hào về nó. Tình cảm này khiến chàng phải nhượng bộ:

– Cháu có thể đi cùng bác tới Lerna nếu cháu muốn. Nhưng bác cấm cháu can thiệp vào trận chiến giữa bác và chó đầu rắn. Chính bác là người phải đảm trách việc đó. Cháu chỉ đi một lần này thôi đúng không? Những gì chờ đợi bác ở Tiryns chỉ liên quan đến bác thôi. Cháu hiểu rồi chứ?

– Vậy là cháu không thể tiếp tục theo bác nữa ư?

Nỗi buồn chợt làm cho đôi mắt đen láy của Iolaus tối lại.

– Bác không dám chắc là sẽ thắng. Con chó đầu rắn có thể sẽ giết chết bác.

– Cháu không tin điều đó! – Iolaus cười rạng rỡ.

– Ở độ tuổi của cháu cần có sự chín chắn hơn nữa.

Iolaus ngạc nhiên nhìn bác.

– Nhưng nếu bác chiến thắng thì sao? – Iolaus nhanh nhảu hỏi.

– Đến lúc ấy mới biết được chứ! – Heracles thận trọng nói.

Trong khi Iolaus tỏ vẻ vui sướng ra mặt thì Heracles tự hỏi liệu mình có quyền cho cậu bé non dại như thế đi theo không, dù cho nó rất dũng cảm và nó là cháu của mình.

Sau một quãng đường dài, Heracles và Iolaus nhận ra rằng họ đã đến nơi. Cơn gió không phải từ đại dương tới nữa, nó mang theo mùi khăm khẳm của vùng đầm lầy Lerna.

Heracles đột ngột lùi lại: luồng khí anh hít vào hôi nồng khiến anh suýt ngạt.

– Iolaus, cháu có thể quay trở lại phía sau đợi bác.

– Không đâu bác Heracles, rồi cháu sẽ quen ngay ấy mà. Cháu không muốn lùi bước.

– Ừ! Thế thì tiến lên, chúng ta sắp tới dòng Amymone (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀμυμώνη), nơi con chó đầu rắn trú ẩn rồi đấy!

Vài phút sau, hai bác cháu đã tới nơi.

Heracles đoán rằng con chó đầu rắn đang giấu mình dưới lớp nước đen hôi thối kia. Khu rừng rậm cành lá lan xuống mặt nước cũng rậm rì, tối tăm như thế, không một tia nắng nào có thể lọt qua. Ở bờ nước và trên những đảo nhỏ, cây cỏ mọc bịt bùng làm cho khung cảnh càng âm u tịch mịch. Heracles ngầm quan sát đứa cháu. Iolaus cố gắng chứng tỏ rằng cậu thích thú nơi hoang dã này. Song Heracles bắt đầu thấy ăn năn vì đã cho cháu dấn thân vào cuộc phiêu lưu này.

Iolaus cao giọng vượt qua nỗi sợ hãi nói:

– Bác Heracles, làm sao cho con chó đầu rắn xuất hiện bây giờ?

Iolaus có lý. Phải hành động ngay, không chậm trễ. Phải buộc con quái vật rời khỏi hang ổ. Nếu không, nó sẽ sinh ra lắm mưu mẹo khác.

Heracles quyết định đốt lửa từ một đám sậy.

Cây cỏ khô bén lửa, cháy lan ra tới tận bìa rừng.

Khi Iolaus thấy bác rút tên ra khỏi bao, cậu hiểu ngay mọi chuyện.

Sau khi châm lửa vào đầu mũi tên, Heracles giương cung lên nhắm vào một hòn đảo trong đầm lầy. Rồi nhờ có sự giúp sức của Iolaus châm lửa vào mũi tên mà Heracles cứ bắn liên tiếp, cho tới khi đầm lầy biến thành một lò lửa. Một vòng tròn lửa và khói bao trùm hết đầm lầy, biến thành một biển lửa.

Họ chẳng phải chờ đợi lâu. Sau vài phút, mặt nước biến động dữ dội, và như một đại dương nứt toác trước mặt họ, đầm lầy như chẻ ra làm đôi, con chó đầu rắn vùng lên.

Nó dựng đứng trước hai người, chín cái đầu hung dữ hăm dọa, chín cái mồm thè lè lưỡi, kêu gào, phát ra mùi hết sức hôi hám.

Heracles rút gươm chém một nhát vào cái đầu gần nhất của con rắn trong tầm tay của mình.

Cái đầu vừa rơi xuống, tức thì hai cái đầu khác mọc lên từ vết thương, to lớn và đáng sợ không kém.

Iolaus thụt lùi. Heracles chém thêm một nhát nữa, lại có hai cái đầu khác mọc ngay ra.

– Iolaus! – Heracles hét to át cả tiếng kêu của con thú. – Mang cho bác một cây củi đang cháy, mau lên!

Trong lúc Iolaus chạy đi kiếm đuốc, Heracles chém đứt một cái đầu nữa của con quái vật.

Chàng hét lên:

– Đốt cái cổ này! Đốt ngay cái cổ này!

Iolaus vừa kịp giơ đuốc lên gí vào cái cổ còn đương chảy máu. Và không có cái đầu nào mọc lên nữa cả. Hai bác cháu say sưa với trận chiến, con vật ngày càng trở nên hung tợn. Từng cái đầu rơi xuống, và Iolaus lại đốt ngay tắp lự.

Con chó đầu rắn nghiêng ngả, nó mất đi phần lớn sức mạnh và mất nhiều máu.

Nhưng vẫn còn một cái đầu lớn nhất bọn, cái đầu được truyền thuyết coi là bất tử. Heracles phải lấy hết sức bình sinh chém mạnh nhiều nhát, rồi bỏ kiếm, vơ ngay ngọn đuốc đốt cháy cái cổ nguy hiểm cuối cùng của con vật.

Con vật co giật một lúc rồi ngã uỵch xuống bờ đầm lầy. Sau những cố gắng cuối cùng, con chó đầu rắn đã khuất phục. Nhưng để cho nó chết hẳn, phải chôn cái đầu bất tử của con quái vật này xuống một tảng đá hình đầu chó, truyền thuyết đã khẳng định như vậy.

Heracles thu dọn vũ khí, bỏ đầu quái vật vào một bao da rồi cùng Iolaus rời vùng đầm lầy.

Mùi hôi thối nhạt dần.

Họ đi suốt hai giờ trên con đường đã dẫn họ tới hang ổ con chó đầu rắn. Suốt hai giờ đồng hồ, Heracles lo lắng tìm cho ra tảng đá hình đầu rắn. Trong khi đó, chiếc bao đựng đầu con quái vật như động đậy: phải chăng nó đang hồi sinh?

Hai bác cháu dừng lại. Heracles vội vã hé mở chiếc túi. Nửa cái đầu thò ra: nó vẫn như cũ. Cái lưỡi chẻ đôi vẫn cứng đờ chỉ về phía trước, nửa như đe dọa, nửa như chế giễu.

Heracles và Iolaus nhìn chằm chằm vào cái lưỡi suýt lấy đi mạng sống của hai bác cháu. Iolaus chợt có ý nghĩ đi theo hướng cái lưỡi con vật chỉ.

– Bác Heracles, trước mặt chúng ta kia kìa!

Đó là một tảng đá dẫn từ Lerna tới Elaeos, khắp bề mặt rong rêu cỏ dại mọc đầy. Hai bác cháu vội cất bước. Họ nhanh chóng lấy kiếm gạt rong rêu bám quanh tảng đá. Đúng là nó có hình dạng một con chó đang nằm ngủ, hai chân trước duỗi ra, cái đầu trông giống như thật.

Heracles và Iolaus tiến hành công việc. Họ đào sâu khoảnh đất giữa hai chân con vật đá.

Trong khi Heracles đào đất bằng chiếc kiếm thì Iolaus cũng giúp bác bằng đôi bàn tay của mình. Công việc trở nên nặng nề hơn bởi ánh mặt trời chói gắt, sự hiu quạnh lạ lùng, chỉ có gió và gió.

Họ vẫn chưa nghỉ một phút nào khi chưa đào được sâu đến mức có thể chôn được cái đầu quái vật như dự định. Khi hố đã đủ rộng, Heracles siết chặt lại túi da lần nữa bằng mấy sợi dây, để không khí không luồn vào được. Rồi Iolaus ném cái túi xuống hố.

Họ lấp hố lại như cũ, và Heracles còn chèn thêm một tảng đá to lên trên.

Rồi sau đó, mặc cho cái nắng gay gắt, hai bác cháu nằm soài trên cỏ, nhẹ nhõm vì chiến thắng mà không ai nghĩ rằng nó khó khăn đến vậy.

Chợt Iolaus mỉm cười và nói với bác:

– Cháu tin chắc rằng Eurystheus nghĩ là bác đã bỏ mạng ở đầm lầy Lerna.

– Những công việc mà Eurystheus giao cho bác buộc bác phải hoàn thành này nhằm mục đích là làm thế nào để tiêu diệt bác. Nhưng bác không phải một con người bình thường như những người khác, dù cho ông ấy còn nghi ngờ, ông ấy cũng phải công nhận những khả năng của bác, những khả năng mà bác cũng chưa khám phá hết. Bác không biết số phận của mình sẽ thế nào. Nhưng bác biết rằng chừng nào các vị thần còn bên cạnh bác, chừng đó Eurystheus vẫn chưa thể hại bác được, ngoại trừ việc ông ấy muốn bác xa Tiryns cho những công việc này. Hơn thế, trước khi trở về để nhận thêm nhiệm vụ, bác muốn làm thêm điều gì đó ở đầm lầy Lerna.

– Bác muốn quay lại đó ư?

– Cháu biết là chẳng còn gì nữa để sợ mà Iolaus!

– Cháu biết điều đó, nhưng ý tưởng quay lại mảnh đất chết chóc đó không làm cháu thích thú tí nào.

– Vậy thì cháu đợi bác ở đây vậy! – Heracles ngắt lời.

– Không đâu! Nhưng tại sao phải quay lại đó?

Heracles nhìn cháu mỉm cười. Trong đầu óc non trẻ của Iolaus chưa có chỗ cho những điều bí ẩn:

– Nào! Để trả lời cháu, ta nói rằng con chó đầu rắn phải có cái gì để tặng cho những người chiến thắng nó chứ.

Thật ra câu trả lời này chưa làm Iolaus thỏa mãn. Nhưng dù sao cậu cũng vui vẻ đi theo bác.

Hai giờ sau, họ tới nơi. Ánh sáng càng gay gắt hơn, đầm lầy cháy trụi, phô ra vẻ xác xơ thảm hại. Xác con chó đầu rắn vẫn chềnh ềnh trên mảnh đất mấy giờ trước còn là chiến trận.

Heracles lôi từ trong bao ra mấy mũi tên. Sau khi đã mổ bụng con quái vật, chàng nhúng tên vào dòng máu đen hôi tanh chảy ra từ ruột nó.

– Iolaus ơi! Giờ đây, những mũi tên này đã tẩm độc, một chất độc nặng nhất. Đây là vũ khí lợi hại sẽ giúp bác trong tương lai và chắc chắn Eurystheus phải hết sức hoảng sợ.

Khi gần đến cổng thành Tiryns, Heracles nhắc với Iolaus phải giữ đúng lời hứa của mình và không được tìm gặp hay đi theo chàng trong những trận chiến sắp tới nếu chàng không yêu cầu.

Đôi mắt to đen của Iolaus trở nên buồn thăm thẳm trước mệnh lệnh ấy. Nhưng cậu cũng chấp nhận sau khi cảm ơn Heracles đã cho cậu cùng tới đầm lầy Lerna.

Lần này nữa, dân chúng thành Tiryns cũng rước Heracles đến tận cung điện. Riêng Iolaus thì đứng lại trong đám đông.

Copreus đã đứng đợi ở bậc thềm cao nhất.

Heracles lại gần và kể cho ông ta nghe toàn bộ sự việc, rằng chàng đã dồn bắt, săn đuổi, chiến đấu, hạ sát và chôn cất con thú nguy hiểm như thế nào.

Copreus khinh khỉnh đáp:

– Vậy đâu là bằng chứng cho sự chiến thắng của nhà ngươi? Chẳng có cái đầu nào của con chó đầu rắn, chẳng có lấy một mảnh da nào của nó trước mặt ta cả.

– Tôi biết ngài không tin tôi. Nhưng ngài đã lầm rồi, ngài Copreus ạ!

– Hãy chứng minh cho lời nói của ngươi và ta sẽ tin là ngươi đã thành công. Câu chuyện ngươi nói hay lắm, Heracles ạ! Sức mạnh của ngươi cũng đáng nể lắm. Đúng là như vậy! Song liệu hoàng đế Eurystheus có thể tin được điều đó không nếu ngươi không có cái gì làm bằng chứng? Ngươi nói thế nào về điều này?

Heracles im lặng một lát trước khi làm rõ mọi việc.

Chàng tìm kiếm Iolaus trong đám đông. Cậu bé đang tự hỏi làm thế nào để Heracles có thể qua được cạm bẫy này.

– Thưa ngài Copreus, người hầu cận rộng lượng và tuyệt đối trung thành của Eurystheus, ngài sẽ không phải thất vọng đâu. Tôi có bằng chứng mang theo đây.

– Được lắm! Ngươi hãy đưa ra đây! – Copreus bực bội đáp.

– Tôi chỉ có thể đưa ra nếu như ngài làm theo những yêu cầu của tôi.

– Hãy nói đi!

– Hãy mang đến đây một con chim đang bị nhốt trong cung điện.

Copreus vội vàng vỗ tay và quay về phía một người hầu:

– Hãy vào trong lâu đài và mang thứ Heracles yêu cầu ra đây.

Khi người hầu quay trở lại, mang theo một chú chim tuyệt đẹp với bộ lông màu xanh biếc có điểm đốm vàng, Heracles rút từ trong bao ra một mũi tên.

Đám đông bỗng ồ lên. Người hầu hoảng sợ khi nghĩ rằng mình là mục tiêu của anh chàng khổng lồ, suýt bỏ chạy nếu Copreus không ra hiệu đứng im.

Heracles nói:

– Đừng sợ hãi gì cả. Ta chỉ cần ngươi giữ lấy con chim trên tay, đừng bóp chặt quá.

Trong khi mọi người đang nín lặng chờ đợi chàng kéo cung bắn chết con chim, và không hiểu rõ một chứng cớ như vậy thì có gì đáng nói, Heracles chậm chạm tiến tới và đưa mũi tên vuốt nhè nhẹ lên mình con chim.

Tiếng la ó nổi lên khi họ nhìn thấy cảnh tượng khủng khiếp trước mắt. Từ đôi mắt con chim từ từ chảy ra những dòng máu đen và rớt xuống bậc tam cấp. Máu của con chó đầu rắn quả là một loại thuốc độc cực mạnh.

Sau những tiếng la ó ầm ĩ là bầu không khí trầm lặng. Heracles chờ đợi.

Copreus xác nhận:

– Có thể ngươi đã giết chết con chó đầu rắn… Nhưng số phận của ngươi chưa được định đoạt đâu. Hãy chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới đi.

Chương V – Con lợn rừng Erymanthos

Con lợn rừng Erymanthos đã khiến Heracles mất rất nhiều công sức lần theo dấu vết và phục kích để bắt sống mang về cho vua Eurystheus. Tiếng rống của nó vang lên dữ dội khiến cho bè lũ Copreus run rẩy, sợ hãi.

Ngưỡng mộ trước chiến công của Heracles và hết sức xúc động trước cảnh tượng vừa rồi, dân thành Tiryns chen lấn đến bậc tam cấp để tung hô chàng.

Copreus chợt lùi lại, bắt đầu bị xâm chiếm bởi nỗi sợ hãi tương tự Eurystheus. ông ta không phải là vua, bởi thế phải truyền lệnh của Eurystheus.

Với một giọng không tự tin lắm, Copreus nói với Heracles:

– Eurystheus, vua của tất cả chúng ta muốn ngươi phải đi ngay lập tức, bắt sống bằng được con lợn rừng Erymanthos (Hay còn gọi Erymanthus. tiếng Hy Lạp cổ: Ἐρύμανθος) đang phá hoại mùa màng của vương quốc. Nhớ là phải bắt sống nó cho bằng được, và mang đến ngay bậc thềm này. Ngươi đi đi!

Những lời nói cuối cùng vừa kết thúc, Copreus vội vàng bước lên những bậc thang và biến mất sau những bức tường cao của lâu đài.

Đám đông bao quanh Heracles, chẳng muốn tản ra chút nào. Họ ngợi khen chàng, đặt cho chàng biết bao câu hỏi, tung hô đúng như đối với một anh hùng mà họ đã chờ đón lâu lắm.

Rồi họ chạm vào xem thử có phải chàng là người thật bằng da bằng thịt hay chỉ là một ảo ảnh mà các thần Olympus phái xuống trần gian.

Heracles giữ không cho họ đến gần bao tên tẩm thuốc độc, cảm ơn mọi người và đề nghị cho chàng lui bước: còn một cuộc phiêu lưu nữa đang đợi chàng, không thể chậm trễ được.

Như một dòng nước, đoàn người lặng lẽ tách ra, nhường lối cho chàng đi. Rồi họ theo sau chàng, tiễn chàng đến tận cổng thành.

Ở đấy, Heracles gặp Iolaus. Hai bác cháu ôm nhau thật chặt. Iolaus cố không tỏ ra buồn bã và lo lắng trước mặt bác. Heracles đọc được trong mắt cháu suy nghĩ đó và thầm cảm ơn cậu bé đã không nói lời chia tay và những nỗi niềm tiếc nuối. Cậu tiễn bác ra tận ngoài cửa thành.

– Iolaus! Trước khi ra đi, bác muốn nói với cháu rằng bác vô cùng tự hào về sự thông minh và dũng cảm mà cháu mang đến cho bác trong trận chiến ở đầm lầy Lerna. Bác biết cháu là một con người luôn biết bảo vệ danh dự. Hãy nhớ rằng, trong cuộc đời, ngay cả khi bác ở xa, thì bác cũng luôn luôn bên cạnh cháu trong tâm tưởng. Cháu có một vị trí trong trái tim bác. Bây giờ cháu hãy trở về với cha mẹ… và chỉ cần đôi chút nhớ về bác thôi.

Heracles lên đường còn Iolaus vượt qua cổng thành trở về nhà.

So với sư tử Nemea, con lợn rừng di chuyển trên một dải đất rộng hơn nhiều. Như thế cũng có nghĩa là khó khăn hơn, nguy hiểm hơn cho đối thủ của nó.

Mảnh đất rộng mênh mông bao gồm đồi núi, thảo nguyên và thung lũng và con lợn rừng có biết bao nhiêu nơi ẩn nấp.

Dường như không có ai có thể ngăn chặn được con thú dữ thường xuyên phá hoại hoa màu, rừng và làng mạc. Nó chạy rất nhanh theo phỏng đoán của những người đã trông thấy nó, vì nó to và nặng gấp năm lần những con heo thường.

Tất cả những cư dân sống trong vùng Psophis (tiếng Hy Lạp cổ: Ψωφίς) đều phải chịu đựng tai họa mà con lợn rừng gây ra. Có một vài người tài giỏi, không chịu nổi cảnh tan hoang cửa nhà, đã quyết lùng bắt cho bằng được con heo rừng, nhưng phí công vô ích.

Những cuộc săn lùng kéo dài hàng tháng trời, nhiều người trong số họ đã trở về nhà, mang theo sự kiệt quệ và bệnh tật, với những cái nhìn thật đáng sợ. Sự dũng cảm, sự thành thạo khéo léo của họ đều trở nên vô ích. Sức mạnh kỳ diệu của con lợn rừng Erymanthos, sự khát khao phá hoại phi thường của nó lên đến mức không ai có thể đọ được với nó. Chỉ cần nhìn dấu chân của nó để lại thì ai cũng phải nhụt chí không dám đương đầu với nó nữa.

Bởi vậy, ngay khi đặt chân đến Psophis, Heracles nói ngay với bất cứ ai mà chàng gặp trên đường về ý định đi bắt lợn rừng của mình.

Trong khi bộc lộ ý định của mình, Heracles không hy vọng nhận được sự giúp đỡ. Vả lại điều đó cũng bị Eurystheus cấm ngặt. Chàng chỉ hy vọng nhận được những lời khuyên bổ ích, những tin tức về con lợn rừng và công việc săn bắt mà dân làng đã tiến hành.

Nhưng nếu có người nào đó đồng ý trò chuyện với chàng thì họ chỉ gợi lại những sự khiếp đảm đã qua và những nỗi lo đang tới chứ không cho chàng biết thêm điều gì mới mẻ cả.

Heracles hiểu rằng tất cả mọi người đều lo sợ tai họa và thu mình lại trong nỗi kinh hoàng tập thể.

Từ bỏ hy vọng tìm hiểu những kinh nghiệm của dân trong vùng, Heracles một lần nữa lại quyết định chỉ trông mong vào chính bản thân mình. Bởi phải tiến hành một “chiến dịch” tìm kiếm lâu ngày, chàng bắt đầu bằng việc chế tạo ra những vũ khí mới chắc chắn sẽ có hiệu lực cao khi thời cơ đến.

Để mang được con lợn rừng về Tiryns, không phải là Heracles dùng tên tẩm độc máu con chó đầu rắn và gươm mà phải có một thứ vũ khí mới chuyên dụng khác cho con lợn rừng mà tự tay chàng làm lấy. Sau khi chọn và lột một số loại vỏ cây dẻo dai, chàng đan thành một tấm lưới lớn. Công việc này đã làm chàng mất hai ngày liền. Sau đó, chàng lên đường truy vết con lợn rừng.

Chẳng mấy chốc Heracles đã tìm thấy dấu vết con thú khổng lồ để lại: bốn dấu chân lún sâu dưới đất, nhọn hoắt, chứng tỏ “tác giả” của nó.

Không một vật sống bình thường nào có thể có được những dấu chân sâu với những rãnh hẹp trên một dải đất rộng như thế.

Suốt cả ngày, Heracles lần theo dấu vết con lợn rừng bỏ lại. Những vết lún chạy qua cao nguyên và mất dấu bên bờ vực.

Heracles cúi nhìn xuống phía dưới. Vực sâu đến độ người hay vật rơi xuống đó đều tan xác.

Thế mà con lợn rừng có thể đi qua đây, nó “bay” qua vực và “hạ cánh” sang bờ vực bên kia. Bốn dấu chân to tướng trên nền đất mềm đã chứng minh điều đó.

Từ vị trí quan sát, Heracles có thể thấy dấu vết của con lợn rừng kéo dài theo đường thẳng qua đồng ruộng tới tận bìa rừng. Nơi đó, đám mây bụi kéo dài ra theo sự hiện diện của con lợn rừng. Một lúc sau, đám bụi lẩn vào sâu trong rừng. Heracles do dự. Trong vài phút, chàng đợi con lợn rừng quay trở ra. Liệu chàng có thể có một cuộc hành trình tương tự?

Con lợn rừng không đi ra hướng bắc như Heracles chờ đợi mà lại đi về hướng tây, cứ như là nó đang ‘khoanh vùng” lãnh thổ để phá phách.

Nó đi thẳng, vừa đi vừa xới tung cánh đồng, tiến thẳng về phía một ngôi làng trước mặt.

Trông thấy một mỏm đá, Heracles trèo lên để quan sát rõ hơn hành trình của con vật. Đám bụi di chuyển vào một thung lũng hẹp. Phía xa, con vật chuyển sang hướng tây, được bao bọc bởi dãy núi đá nhọn hoắt chạy về phía cao nguyên. Heracles biết rằng con lợn rừng sẽ đi theo hướng đó. Nếu anh nhanh chân lên, anh có thể tới nơi trước con vật bằng cách quay trở lại con đường phía bên kia cao nguyên.

Heracles thử vận may của mình. Anh bắt đầu chạy trên cao nguyên, theo con đường đã định sẵn. Anh chạy nhanh hết mức có thể, tránh chướng ngại, nhảy qua các đống đá sụp lở, vòng qua các thân cây cao. Con lợn rừng đã lấp ló phía trước, nhưng vài chục phút nữa nó mới tới nơi. Như thế cũng đủ rồi. Trừ khi nó thay đổi hướng đột ngột và liều mạng đâm đầu vào những thành đá dốc đứng, nhưng rồi nó cũng sớm sập bẫy thôi.

Heracles trèo lên những đỉnh đá nhọn cao chừng vài mét, ở dưới là lối đi nhỏ hẹp. Chàng lấy mũi tên ngoắc vào một đầu dây thừng dài rồi cắm sâu vào vách đá; rồi chàng nối đầu kia vào tấm lưới, sau đó cho vài cục đá nhỏ vào trong.

Vừa chuẩn bị xong thì con lợn rừng cũng vừa đến.

Con vật cách chàng vài mét, nó lừng lững, to gấp mấy lần một con lợn rừng bình thường.

Và đôi chân của nó lún sâu xuống đất đơn giản như đứa trẻ nghịch ngợm ấn ngón tay xuống cát.

Vừa tiến lên, cái đầu hơi cúi xuống, con vật khổng lồ thở hừng hực như cái bễ lò rèn. Ai dám nghĩ là sẽ chiến thắng nó?

Heracles chẳng còn thời gian để so đo nữa.

Thét vang một tiếng, chàng quăng tấm lưới lên mình con lợn rừng và nhảy xuống theo, tay vẫn không buông đầu lưới. Bị tấn công đột ngột, con vật lúng túng giây lát rồi nhảy dựng lên. Heracles lấy hết sức siết chặt sợi dây ở miệng tấm lưới: con vật đã bị tóm gọn song vẫn chưa chịu khuất phục. Nó rống lên, lắc lư thân mình, bốn chân cào xới đất. Heracles tiếp tục thít chặt sợi dây, siết mạnh tấm lưới lại và bản thân con vật cũng tự siết chặt tấm lưới vào mình bởi những cử động dữ dội.

Phía trên cao, chiếc mũi tên giữ sợi thừng bị cong dưới sức mạnh của con vật đang giãy giụa và có vẻ không trụ được lâu nữa trận chiến kinh khủng này. Heracles nhảy lên con vật và đá cho nó mấy phát nhưng chẳng ăn thua gì cả.

Lúc sắp kiệt sức chàng vớ ngay lấy một tảng đá và nện cho con vật một cú trời giáng, khiến cho nó lăn ra bất tỉnh. Bất cứ con vật nào cũng có thể chết ngay với cú đánh mạnh như thế, nhưng con lợn rừng này thì không, chẳng bao lâu nữa nó sẽ hồi tỉnh. Chàng vội vã lấy dây buộc túm bốn chân con lợn rừng lại, lấy một sợi dây khác buộc đầu và đuôi nó lại với nhau. Giờ đây nó đã nằm gọn trong lưới. Nếu nó càng giãy giụa, nó càng bị siết chặt vào lưới, sức khỏe sẽ chỉ làm hại nó mà thôi.

Xong việc, Heracles vội vã đi kiếm đủ thứ lá cỏ cứng nhét đầy miệng con vật. Như thế sẽ chẳng có gì phải lo lắng vì con vật sẽ không kêu rống lên được khi chàng về tới Tiryns.

Heracles xem xét con vật rồi quỳ gối xuống đất, nhấc gánh nặng lên vai.

Chuyến trở về thật cực nhọc. Con vật làm cho chàng đi chậm hẳn. Mỗi bước chân đi là một lần da thịt chàng đau đớn vì bị những mắt lưới nghiến vào. Heracles cố chịu đựng nỗi đau đớn này, gắng gượng bước đi với tốc độ bình thường. Cố dồn sức vào công việc, chàng chẳng hề để ý thấy những người nông dân từ các cánh đồng nhìn thấy chàng và hoảng hốt bỏ chạy.

Khi trở về thành Tiryns, Heracles ngạc nhiên không thấy có ai ra đón chàng như những lần trước. Chàng không hề hay biết rằng, trong khi chàng trở về, tin tức đã lan khắp nơi, rằng Heracles đã dễ dàng bắt sống được con lợn rừng và nhẹ nhàng vác nó trên vai; anh không phải là người bình thường, đó là một người siêu phàm với những sức mạnh siêu việt. Người như thế, hẳn phải là sự đe dọa cho dân chúng. Heracles một mình đi vào thành, băng qua những con đường vắng và dừng lại trước những bậc tam cấp của lâu đài. Chẳng có ai chờ đón chàng cả. Heracles ném con lợn rừng xuống đất.

– Copreus! – Chàng gọi. – Copreus! Tôi đã mang con lợn rừng ở Erymanthos về cho đức vua của ngài đây. Nó đang sống đây này. Nhanh lên nào!

Con vật có những dấu hiệu chứng tỏ mệt mỏi. Trên suốt chặng đường về, càng cố gắng giãy giụa thì nó càng bị siết chặt. Hơi thở của nó thoát ra khó khăn bởi lớp cỏ nhét đầy miệng, khàn khàn một cách đáng sợ.

Heracles lôi đám cỏ từ trong miệng nó ra.

Ngay lập tức, sau một thời gian phải chịu đựng khá lâu, con vật rống lên một tiếng kêu sắc nhọn và âm vang dữ dội. Và Copreus run rẩy xuất hiện.

– Được rồi, được rồi… Ngươi đã chứng minh được chiến thắng của ngươi. Ta không bàn cãi về điều đó nữa. Nhưng ngươi chưa hết gian nan đâu. Ta sẽ đi tâu với Eurystheus rằng ngươi đã trở về và sẽ quay lại báo cho ngươi cuộc thử thách mới.

Nói xong, Copreus lủi vào lâu đài, nhẹ nhõm vì đã tránh xa được con vật khổng lồ, đen trùi trũi, bóng nhẫy mồ hôi và rống to như tiếng rống của một đàn lợn rừng.

Chương VI – Con nai chân cứng sừng vàng ở Keryneia

“Con nai chân cứng sừng vàng” là chiến công thứ 4 trong số 12 chiến công của Heracles. Đây là một công việc tưởng như có vẻ dễ dàng nhưng kỳ thực đó lại là việc hết sức khó khăn. Heracles phải mất hàng năm trời mới đuổi theo bắt được con nai chân cứng sừng vàng trên đỉnh Keryneia.

Trong khi Heracles chờ Copreus quay lại và dân thành Tiryns còn đang trốn kín trong nhà mình, thì trong lâu đài diễn ra cuộc chuyện trò giữa Eurystheus và Copreus.

Cả hai đều cảm thấy hết sức hãi hùng trước chiến thắng của Heracles. Từ bên ngoài, tiếng rống của con lợn rừng Erymanthos càng khơi lên nỗi hoảng loạn và bất lực của Eurystheus và Copreus đối với vị anh hùng có sức mạnh như thần linh.

– Thưa đức vua Eurystheus! Phải làm thế nào để Heracles không thể trở về sau chuyến đi này nữa? Lẽ ra hắn phải bị con heo rừng hạ gục.

Không có lý nào hắn lại chiến thắng tất cả quái vật đang sợ trên đời này. Phải thêm bao nhiêu cuộc thử thách nữa hắn mới bị đánh bại đây?

– Ta biết, ta biết tất cả điều đó, Copreus ạ! Ngươi còn định dạy ta điều gì? Ngươi là cố vấn số một của ta hay chỉ là một đứa trẻ nhút nhát?

Copreus im lặng trước lời xúc phạm của vua.

Dù sao đi nữa, Eurystheus cũng phải gặp Heracles và báo cho chàng thử thách mới. Chứ làm vua mà không rời khỏi ngai thì có gì là khó.

Vị vua chợt hiểu mình đã vụng về trước cố vấn của mình, đã đối xử không hay với ông ta.

Hơn thế, nếu không có Copreus, liệu ông ta có chịu đựng được những chiến thắng vang dội của Heracles mỗi lần trở về Tiryns không?

Eurystheus thấy mệt mỏi và cảm thấy bị nữ thần Hera bỏ rơi trong “công cuộc” này. Chắc chắn là nữ thần đã lôi cuốn ông ta, gieo vào trí óc ông ta những kế hoạch thử thách cho Heracles, mới lời cho ông ta. Và cả hôm nay nữa, chính nữ thần đã chỉ cách cho ông ta cư xử tiếp thế nào. Song lần nào Heracles cũng chiến thắng.

Copreus có lý. Phải cần bao nhiêu thời gian nữa việc này mới kết thúc? Nếu những công việc này thành công thì nó sẽ củng cố thêm cho quyền năng và sức mạnh của Heracles. Nếu Hera không tiếp tục can thiệp nữa, công việc của Heracles sẽ không chấm dứt và Eurystheus sẽ chết già trước khi thấy vị anh hùng được coi là đối thủ của ông ta “tử trận”.

Eurystheus bước tới bước lui, suy nghĩ mông lung trước sự im lặng và ánh mắt đầy trách móc của vị cố vấn Copreus.

– Copreus, ta hoàn toàn tin tưởng vào ngươi. Đừng im lặng như thế nữa. Ngươi là cố vấn số một của ta. Vừa rồi ta bối rối vì ta không chịu nổi tiếng kêu của con vật khốn kiếp ngoài kia và chiến thắng của Heracles làm ta hoang mang nghi ngờ chính quyền lực của mình.

Nhà vua không hề nói dối. Chưa bao giờ Copreus trông thấy vị vua của mình trong tình trạng như thế.

– Tâu đức vua! Ngài đừng để cho sự sợ hãi ngự trị mình. Bây giờ vấn đề chỉ còn là sự kiên nhẫn thôi. Rồi sẽ tới cái ngày mà Heracles không còn xuất hiện trước ngài nữa.

– Đúng thế. Ngươi hoàn toàn có lý. Không cần phải bắt Heracles chờ đợi. Hắn sẽ phải đi ngay. Và nếu hắn có sức khỏe phi thường và trí thông minh siêu việt như thế, phải cho hắn chịu đựng thử thách gì đây nhỉ?

Eurystheus đã lấy lại được sự thanh thản sau những lời nói đó. Hera chắc hẳn để cho hắn tìm phương cách riêng.

– Tâu đức vua! Bây giờ ngài muốn Heracles làm gì nữa đây?

– Một thử thách dễ dàng hơn những thử thách hắn đã trải qua rất nhiều lần. Nhưng sẽ đòi hỏi ở hắn nhiều, rất nhiều thời gian và…

Eurystheus chợt dừng lại, “nhấm nháp” ý nghĩ của mình, cân nhắc trước khi tỏ rõ quyền lực:

– Hãy đi bảo hắn tới đỉnh Keryneia (tiếng Hy Lạp cổ: Κερύνεια) và bắt sống con hươu chân cứng sừng vàng về đây cho ta. Và giết chết con lợn rừng khốn kiếp ấy đi, ta không muốn đinh tai nhức óc thêm nữa.

Copreus ra gặp Heracles và báo lại lệnh của Eurystheus. Mấy tên lính theo sau không dám đụng vào con lợn rừng. Vậy là Copreus lại sai Heracles tận tay giết chết con vật khổng lồ ấy.

Heracles rút kiếm đâm một nhát vào cổ lợn rừng rồi thu lưới lại và lên đường.

Chàng rời khỏi thành phố mà không gặp một người nào. Đó là điềm xấu cho cuộc phiêu lưu.sắp tới hay chỉ do nỗi sợ hãi về những chiến công của chàng gây ra?

Heracles không phải là người dễ nản lòng, nhưng sự hờ hững của dân thành Tiryns dành cho chàng khiến Heracles nhớ tiếc sự có mặt của đứa cháu. Nếu hôm nay Iolaus tới xin đi theo bắt con hươu thì Heracles hẳn không nỡ từ chối.

Những tháng ngày xa cách đứa cháu khiến chàng buồn rầu.

Nhưng để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ, chàng phải tự đương đầu một mình với công việc.

Nhưng liệu chàng có thiếu trách nhiệm trong việc đưa Iolaus đi theo mình không? Khi Iolaus giúp chàng chiến đấu chống lại con chó đầu rắn Lerna, không một vị thần nào, và thậm chí cả Eurystheus coi đó là trái phép. Và con hươu chân cứng sừng vàng lại chẳng phải là quái vật nguy hiểm như những con vật mà chàng đã phải đối đầu trước đây hay sao.

Heracles đi theo con đường dẫn tới núi Keryneia. Những yêu cầu Eurystheus đưa ra có vẻ rất dễ thực hiện, và anh bắt đầu nghĩ rằng hẳn Eurystheus có âm mưu gì trong việc bắt con hươu này. Đây là con người thiếu trung thực và tình cảm thì đen tối. Dân chúng không ưa đã đành, ngay cả các vương quốc láng giềng cũng ghét bỏ ông ta. Lời nói của Eurystheus thì hiểm độc, ý nghĩ thì luôn đen tối. “Hẳn là ông ta muốn gây cho mình nhiều sự ngạc nhiên đây”, Heracles đoán chắc như thế.

Con hươu chân cứng sừng vàng nổi tiếng vì chạy nhanh. Heracles biết rõ điều đó nhưng không lấy làm lo lắng, vì bản thân chàng cũng chạy nhanh gấp mấy lần người thường. Vậy thì con hươu kia có gì mà chàng phải sợ hãi? Heracles tự đặt ra những câu hỏi như thế nhưng không sao trả lời được. Rồi sẽ đến lúc tất cả sẽ được giải đáp.

Chàng vội tới bờ một con suối để nghỉ ngơi lấy sức. Bờ bên kia có một mục đồng đang chăn cừu.

Heracles lên tiếng:

– Liệu tôi còn cách núi Keryneia bao xa nữa anh bạn nhỉ?

– Đi nhanh thì ngày mai anh sẽ đến đó. Heracles ngạc nhiên:

– Anh chắc thế chứ?

Mục đồng đưa tay chỉ về phía chân trời:

– Anh hãy nhìn kìa! Đó là đỉnh núi anh đang tìm.

Đỉnh núi có vẻ còn cách anh quá xa. Mục đồng trêu chọc anh đấy thôi. Heracles hẳn phải mất nhiều ngày nữa mới tới nơi được.

– Tôi không tin là ngày mai đã có thể tới đó. – Heracles nói. – Vì sao anh lại nói dối tôi?

– Tôi không hề nói dối anh. Rồi anh sẽ thấy.

– Mục đồng đáp.

Dứt lời, mục đồng và đàn cừu bỗng biến mất.

Heracles không còn tin vào mắt mình nữa. Phải chăng đây là một thông điệp của thần linh? Hay là chàng đang mơ? Hay là dòng nước mà chàng vừa uống mấy ngụm giải khát có điều gì thần bí phi thường?

Đêm tới, Heracles ngủ bên bờ sông.

Ánh sáng mặt trời đánh thức chàng. Nhưng Heracles không còn ở đồng cỏ hôm qua nữa. Bây giờ, chàng đang ở chân núi Keryneia cao vút tận trời xanh.

Heracles chợt hiểu ra và quyết định tận dụng món quà thần linh đã ban cho chàng.

Heracles không bao giờ nghĩ rằng cuộc leo núi Keryneia lại lâu tới như vậy. Chàng càng lên cao, ngọn núi càng như vươn lên mãi.

Vừa trèo, chàng vừa tìm kiếm dấu vết của con hươu. Chàng quan sát các bãi bằng trên núi, len lỏi vào các hẻm sâu, liều mình vào trong hang động và đi ngược các dòng thác.

Hàng tháng trời trôi qua, chàng vẫn chưa tới được đỉnh núi, cũng chẳng tìm thấy dấu vết nào của con hươu.

Đây là lần đầu tiên từ khi Heracles vâng theo lệnh của Eurystheus và nhà tiên tri chàng nghĩ là mình sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ được.

Ba tháng nữa lại trôi qua.

Một ngày kia, chàng phát hiện ra vết chân của con hươu và liền lần theo. Chàng cứ leo dọc sườn dốc núi Keryneia trong một tháng rồi một buổi sáng, khi ánh ngày bắt đầu rạng, chàng trông.thấy con hươu đang kiêu hãnh nằm trên một tảng đá. Đôi sừng vàng của nó lấp lánh như thể tia sáng mặt trời vậy.

Con hươu chợt nhận ra chàng bèn lao vụt đi. Heracles đuổi theo sau.

Ròng rã hàng tháng trời, chàng cứ chạy theo sau chú hươu xinh đẹp, cứ đi lên, lên mãi. Thi thoảng, nó dừng lại, đợi chàng tới gần rồi lại phóng vụt đi.

Cứ theo sát nhau như thế, Heracles và con hươu phải chạy vòng quanh núi Keryneia tới mười vòng. Cả hai cùng chạy lên ngọn núi mỗi ngày lại cao thêm. Thế mà chẳng hề mệt mỏi. Cả hai cứ mải miết như vậy, đêm cũng như ngày, không hề có ý định dừng chân nghỉ ngơi.

Cuộc rượt đuổi kéo dài một năm trời. Heracles dần dần nhận thấy mình có cảm tình với chú hươu, và lấy làm vui mừng vì mình không phải hạ sát nó.

Nhiều lúc chàng đã có thể tung lưới bắt con vật nhưng lại thôi. Heracles muốn đợi lúc con hươu tự nộp mình cho chàng. Đấy quả là một ý nghĩ rồ dại, nhưng Heracles không dứt bỏ. Con hươu này xinh đẹp và hiền lành đến độ chàng không thể đối xử với nó như con lợn rừng Erymanthos được. Nó không phải là một con quái vật, mà là con vật xinh đẹp nhất mà thần thánh gửi xuống trần gian.

Phải chăng đây là cái bẫy của Eurystheus? Heracles luôn nghĩ như vậy. Và nếu như con hươu không chịu tự nguyện nộp mạng cho chàng, liệu Heracles phải làm gì?

Một hôm, cuộc đuổi bắt đột ngột thay đổi.

Không phải là cả hai giảm tốc độ mà chính là bay bổng lên. Con hươu bay khỏi mặt đất mà Heracles cũng bay theo như vậy. Cuộc rượt đuổi khiến cả hai cùng bay lên cao.

Và, vừa lúc mặt trời đi ngủ, họ bay về hướng núi. Một đồng cỏ bao phủ trên đỉnh Keryneia.

Chú hươu tới đỗ ở đó, mắt lấp lánh hướng về ánh ngày đang dần tắt. Heracles biết rằng thời điểm đã tới và chàng không cần phải dùng đến chiếc lưới.

Chàng tới gần chú hươu, vuốt ve đôi sừng và nhẹ nhàng đặt nó lên vai.

Dân chúng đã kéo nhau trở lại trước cổng thành Tiryns. Chú hươu ngoan ngoãn nằm yên trên vai Heracles, chàng rẽ đám đông, đi tới cung điện của Eurystheus, lòng đầy lo lắng.

Copreus đợi chàng ở vị trí quen thuộc, vẻ mặt tối sầm. Heracles nhẹ nhàng thả chú hươu xuống.

Nó nằm duỗi ra, không kêu một tiếng.

– Hãy báo cho Eurystheus rằng ta đã trở về.

– Heracles nói.

– Ngài đã biết ngươi trở về. Dân chúng đã loan tin từ nhiều giờ rồi. Ngươi đã thành công thêm một lần nữa.

– Đúng thế! Nhưng Eurystheus sẽ làm gì với chú hươu này? – Heracles hỏi.

– Thế ngươi muốn đức vua làm gì?

– Con hươu sẽ vào vườn thượng uyển và có thể làm mọi thứ theo ý mình. Cho đến khi nào nó thích quay về đỉnh Olympus.

– Thế thì tốt!

– Hãy tin vào điều đó đi! – Copreus vui vẻ nói. – Con hươu này chẳng có gì đáng sợ. Trái ngược hẳn với nhà ngươi. Eurystheus ủy thác cho ta báo cho ngươi biết rằng ngươi phải đi ngay tới hồ Stymphalian (tiếng Hy Lạp cổ: Στυμφαλίδες): lũ chim đang đợi ngươi ở đó.

Và Copreus cười ha hả.

12 chiến công của Heracles (Hercules) – Thần thoại Hy Lạp
Đàn chim hồ Stymphalian

Chương VII – Đàn chim hồ Stymphalian

Trong chiến công này, Heracles đã được nữ thần Athena tặng cho hai cái chũm chọe – một thứ vũ khí đáng sợ giúp chàng tạo ra một trận bão âm thanh, giúp chàng dễ dàng tiêu diệt được đàn chim hồ Stymphalian một cách nhanh gọn.

Copreus dừng lại hồi lâu trên bậc tam cấp, toàn thân rung lên vì những trận cười không dứt.

– Heracles, đàn chim… Ha ha… Đàn chim! – Những tiếng kêu vui sướng thoát ra sau những lần co thắt yết hầu.

Heracles yên tâm khi biết rằng chú hươu đã được đưa vào vườn thượng uyển. Trái tim tan nát, trí óc mệt mỏi, chàng ra đi. Heracles thực sự không suy nghĩ lo lắng khi Copreus nói về số phận của chú hươu. Nhưng còn Eurystheus, những điều tồi tệ như được thấy trước: Liệu hắn ta có giết chú hươu xinh đẹp trong thời gian chàng vắng mặt hay không? Đó là sự rủi ro mà Heracles phải chấp nhận. Cuộc rượt đuổi kéo dài một năm ở đỉnh Keryneia và những gì chàng thấy được từ chú hươu đã thức dậy những tình cảm sâu thẳm trong chàng mà Heracles đã cố tình che giấu.

Vừa qua cổng thành Tiryns Heracles bắt đầu chạy, hy vọng khoảng cách giữa chàng và chú hươu ngày càng lùi xa. Giờ đây, chàng tập trung cho cuộc chinh chiến mới.

Hồ Stymphalian gây nhiều tiếng tăm xấu ở Arcadia (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀρκαδία).

Heracles nhanh chóng nhận ra điều đó.

Chàng mau chóng quên cuộc rượt đuổi vừa rồi với chú hươu.

Mùi hôi thối của hồ Stymphalian làm Heracles nhớ đến đầm lầy Lerna của con chó đầu rắn, chàng còn cảm thấy như mình đang ở địa ngục.

Lọt trong một vành đai đá nhọn, kết thúc bằng những sườn dốc thẳng đứng bao phủ bởi bạt ngàn cây lá đen, hồ Stymphalian giống như nơi tận cùng của thế giới, mảnh đất bị thần thánh và con người lãng quên. Hàng ngàn con chim sinh sôi cư ngụ ở đó, chiếm cứ một vùng rộng lớn quanh bờ, nơi lau sậy mọc um tùm.

Lúc nghỉ ngơi, đàn chim tụ lại, rúc vào nhau tạo thành một khối đen sẫm, trải ra tận bờ lau sậy và làm xao động mặt nước bởi những tiếng va chạm lách cách không dứt của bộ lông cứng như đồng, nhọn như bọc thép, những cái mỏ và móng vuốt cũng sắc như thế. Khi chúng đồng loạt cất cánh, một vùng trời đang tươi sáng bỗng tối sầm lại như ban đêm.

Đám mây khổng lồ ấy di chuyển khắp nơi.

Ngay khi phát hiện ra miếng mồi, đàn chim lao xuống, phóng những chiếc lông tới tấp như tên giết chết con mồi ngay tức khắc. Rồi chúng xà xuống, dùng móng sắc và mỏ xâu xé con mồi.

Vài phút sau, bữa tiệc của những con quái vật này chỉ còn lại những bộ xương.

Làm sao có thể triệt hạ được đàn chim quái ác này? – Heracles tự hỏi trong khi đứng nấp ở một cửa hang để quan sát chúng. Cung tên, lưới, thanh gươm đều trở nên vô dụng trước đàn chim lớn như thế.

Heracles không thể đứng mãi ở chỗ nấp được.

Lũ chim sẽ mau chóng phát hiện ra chàng. Cái hang khá sâu, xuyên vào trong lòng núi. Heracles cho rằng lũ chim có thể đuổi theo chàng vào tận hang. Ở đó, cho dù chàng có kiên cường và sung sức thế nào chăng nữa, chàng cũng bị đàn chim tiêu diệt trước lúc giết được vài con. Chàng cần phải có một quyết định hết sức thận trọng, nhưng chàng hoàn toàn bất lực. Heracles cầu khẩn các vị thần, hy vọng có được sự giúp đỡ như của mục đồng trong cuộc thử thách trước.

Khi chàng sắp quyết định quay trở lại hồ để chiến đấu với lũ chim bằng những vũ khí quen thuộc của chàng thì một tiếng chuông trong như thủy tinh vang lên trong động. Heracles quay trở lại và nhìn thấy một luồng sáng làm chàng nhớ đến những chiếc sừng vàng của con hươu dưới ánh nắng mặt trời.

Chàng tiến lại gần. Một làn gió lạnh tỏa lên từ lòng hang trong khi ánh sáng ban nãy càng lúc càng mạnh hơn. Một lớp cát trắng trải rộng trên nền hang, trên đó, bày sẵn hai chiếc đĩa bằng đồng to tướng.

Heracles cảm thấy có sự hiện diện khác lạ ở sâu thẳm của hang: có ai đó nấp sau tảng đá lớn.

Heracles đưa tay rút gươm thì nghe có giọng nữ vang lên trong bóng tối.

– Cất gươm đi Heracles ạ! Nó không giúp ngươi chống lại Athena (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀθηνᾶ) được đâu.

– Athena? Nhưng mà…

– Hãy im lặng và nghe ta nói!

Heracles tỏ vẻ phản đối:

– Tôi phải…

– Ta biết ngươi đến hồ Stymphalian làm gì rồi.

Ta có mặt ở đây để giúp ngươi, và lũ chim sẽ chẳng ra tay chừng nào ta còn ở dây. Ta đã mang vũ khí đến cho ngươi đấy.

Là nữ thần công lý và chiến tranh, Athena chỉ can thiệp vào trận chiến để bênh vực cho phe chính nghĩa.

– Có phải người là mục đồng bên suối đó không?

– Hãy tin những lời ta chỉ bảo! Và hãy tận dụng đôi mắt và đôi tai của ngươi.

Nữ thần ngừng lời và một luồng gió còn mạnh hơn lúc trước xoay vần trong hang, cuốn theo cát bụi trong một vòng xoáy dữ dội và Athena cùng lúc biến mất.

Sự yên tĩnh kỳ lạ trở lại trong hang. Heracles trầm ngâm suy nghĩ về những lời căn dặn của Athena. “Hãy sử dụng đôi mắt và đôi tai của ngươi”. Trên nền hang, hai chiếc đĩa vẫn nằm đó, tuy ánh sáng hắt ra nhợt nhạt hơn.

Heracles quỳ gối và cầm một chiếc lên ngắm nghía, nó trông như một cái khiên, khá nặng.

Heracles lật mặt kia: đúng là một cái chũm chọe, với một tay nắm cứng bằng da.

Cái kia cũng y hệt cái này. Cho hai cái va chạm vào nhau tất nhiên sẽ phát ra âm thanh.

Heracles biết điều đó. Và đó cũng là điều Athena đợi ở anh. Nhưng tại sao những cái chũm chọe này lại lớn đến thế? Liệu chúng có phải là một thứ vũ khí lợi hại để tiêu diệt toàn bộ lũ chim hồ Stymphalian không?

Cùng với hai chiếc khiên và những vũ khí riêng của mình, Heracles vội bước ra khỏi hang.

Ở trong chỗ ẩn nấp, thứ nhạc cụ này không những không có ích gì cho Heracles mà có thể còn làm hại chàng nữa. Âm thanh của thứ nhạc cụ to tướng ấy được truyền đi vang dội khắp vách đá, chắc hẳn sẽ đục thủng màng nhĩ của bất cứ người nào.

Ngoài kia, hồ Stymphalian nhuộm màu xanh sẫm. Heracles đi xuống dốc với những bước chân cẩn trọng, chú ý hết sức để hai chiếc chũm chọe không va vào nhau.

Trên đường tiến lại bờ nước gần nhất, Heracles nấp sau một đám sậy, chờ đợi. Một vài con chim dự cảm được sự xuất hiện của chàng, song chúng tin tưởng vào sức mạnh hiếm có của bản thân nên kiên nhẫn chờ đợi những dấu hiệu cụ thể hơn. Mùi xú uế khiến Heracles khó chịu vô cùng, chàng sợ bị nghẹt thở và quyết định đánh mạnh hai cái chũm chọe vào nhau.

Hậu quả gây ra từ trận bão âm thanh này thật không thể nào tin được.

Heracles không thể tin vào tai mắt của mình nữa. Trong khi chàng cố giữ mình khỏi chao đảo, đinh tai nhức óc vì những âm thanh dữ dội, thì “tấm thảm xanh đen” nổ tung thành ngàn mảnh kim loại chấp chới trong không trung.

Vang dội từ vách núi đá, tiếng vọng của hai cái chũm chọe tăng dần thành những mũi tên xé rách bộ lông của đàn chim. Con nào con nấy vội vã bay lên, bị thương, chao đảo, như trong một cơn điên. Cách mặt nước vài mét, lũ chim húc.vào nhau, tự xé xác lẫn nhau do mỏ sắc và móng vuốt, rồi tan xương nát thịt, rơi xuống hồ và chìm nghỉm.

Trong vài phút, không con nào kịp đoán được tình thế để tấn công kẻ thù nguy hiểm nhất mà chúng từng gặp, thì phần lớn đã bỏ mạng.

Máu của chúng như kim loại đặc, làm biến sắc cả mặt hồ trước khi tan thành hàng trăm ngôi sao băng.

Thấy khỏe mạnh và tỉnh táo hơn, Heracles giương cung và chọn một mũi tên tẩm độc nhằm vào một con chim đang bay. Khi trúng tên, nó rơi xuống, kéo theo vài con khác. Phát thứ hai, cẩn trọng hơn, và thế là hàng chục con chim đâm sầm vào nhau, kéo theo một lũ nữa. Tất cả rơi như mưa xuống hồ.

Khi chàng gài mũi tên cuối cùng vào cung thì chẳng còn con chim nào sống sót ở hồ Stymphalian nữa.

Mùi hôi thối nồng nặc bao phủ quanh hồ đã biến mất: Heracles đã hoàn thành nhiệm vụ và trả lại sự sống cho cả một vùng. Những chú chim xinh đẹp ngoan hiền kéo tới làm tổ trong đám sậy; muôn loài cá sinh sôi dưới hồ. Giờ đây, Heracles chỉ còn phải về Tiryns.

Trước khi đi, chàng thu lượm hai chiến lợi phẩm kim loại bên bờ hồ, cho vào tay nải của mình.

Chương VIII – Con bò mộng của vua Minos

“Con bò mộng của vua Minos” là chiến công thứ 6 trong số 12 chiến công của Heracles. Đây là một con bò mộng hung dữ có sức phá hoại không thể tưởng tượng được mà thần Poseidon đã tặng cho vua Minos. Heracles phải tìm cách bắt sống nó để mang về cho vua Eurystheus.

Dần về đến thành Tiryns, Heracles dừng lại giữa đường. Lúc nhặt xác hai con chim bên hồ Stymphalian, chàng chỉ giản đơn nghĩ rằng đó là chứng cớ cho chiến thắng của mình. Hai con chim này thừa sức chứng minh rằng trong cả xứ Hy Lạp này, chẳng có ai có thể tiêu diệt được nổi một trong số những chú chim đó.

Chàng dừng lại bởi một ý nghĩ vừa chợt đến trên đường trở về. Chàng dự tính sẽ tặng cho Copreus một con và quyết định giữ lại cho mình con chim còn lại.

Chàng ngồi xuống vệ cỏ và bắt đầu nhổ những chiếc lông đồng đầu bịt thép của một trong hai chú chim, cho vào túi đựng tên. Chắc chắn chúng sẽ là thứ vũ khí hết sức lợi hại giúp chàng trong những lúc nguy khốn. Khi đã xong, chàng cẩn thận nhét lông chim xuống tận đáy bao, bên trên là con chim dành tặng cho Copreus rồi vội vã trở về thành.

Dân thành Tiryns vui vẻ reo hò khi thấy xác con chim hồ Stymphalian vứt dưới chân Copreus.

Dĩ nhiên là ngài cố vấn không hề chia xẻ với dân chúng niềm ngưỡng mộ ấy. Vua Eurystheus lại khiển trách vị cố vấn khi biết được Heracles lại chiến thắng trở về. Copreus rất khó chịu trước thái độ của Eurystheus bởi bản thân ông ta cũng tin chắc là Heracles sẽ thất bại.

Những tiếng ồn ào lại nổi lên. Mọi người hướng về phía những bậc tam cấp.

Copreus quay trở lại.

Chính Eurystheus xuất hiện trước Heracles.

Copreus tự hỏi điều gì đã khiến cho vị vua rời khỏi chỗ ẩn nấp của mình. Phải chăng nhà vua muốn tỏ rõ quyền lực của mình trước cư dân thành Tiryns? Hay là nhiệm vụ sắp tới của Heracles khó đến độ Eurystheus muốn “khủng bố” tinh thần của Heracles, thậm chí báo trước cái chết cho chàng? Đúng thế! Chiến công vừa rồi của Heracles đã làm nữ thần Hera nổi giận. Bà đã vào hoàng cung và thuyết phục Eurystheus bình tâm trở lại.

Trận đấu sắp tới chắc chắn Heracles sẽ chết. Hơn thế, Hera đã đưa ra cho Eurystheus nhiều chỉ dẫn cần thiết. Đó là lý do tại sao mà vị hoàng đế dám giáp mặt với Heracles.

– Ta rất hài lòng về ngươi! – Nhà vua nói.

Copreus rất giận. ông không hiểu vì sao nhà vua lại có thể thân mật như thế với Heracles, trong khi mấy phút trước, ngài còn chỉ trích ông hết lời. Thái độ thay đổi đột ngột ấy có nghĩa gì đây?

– Thưa hoàng đế! – Copreus nghiến răng can thiệp. – Nếu Heracles đã chiến thắng được lũ chim ở hồ Stymphalian, chẳng hạn như đã giết chết con vật này, thì đó chỉ là phận sự thôi. Thần không hề thấy có lý gì để chúc mừng cả.

– Im lặng đi Copreus! Ngươi quên là ngươi đang nói chuyện với hoàng đế của mình rồi đấy.

Copreus cảm thấy hết sức nhục nhã trước thái độ đó của vua. Chẳng phải ngài là người đã thực hiện nhiệm vụ của Eurystheus lúc hoàng đế quá sợ hãi đó sao?

Copreus lặng im, tự nhủ sẽ không bao giờ giúp đỡ vua nữa. Liệu Eurystheus còn trông chờ điều gì? Heracles thể nào cũng sẽ chiến thắng lần nữa trong cuộc thử thách nặng nề sắp tới.

– Được rồi! – Eurystheus nói tiếp sau một hồi im lặng, với nụ cười rất lạ lùng. – Mọi việc đã rõ mười mươi, và ta xin gửi tới ngươi những lời ngợi khen trước việc chiến thắng lũ quái vật ở hồ Stymphalian. Nhờ ngươi mà vùng đất ấy thoát khỏi lũ chim đồng nghĩa với sự chết chóc và hủy diệt. Tuy nhiên, nhiệm vụ của ngươi vẫn chưa kết thúc đâu.

– Thần biết, thưa đức vua! – Heracles trả lời với sự kính trọng. – Chính vì điều đó mà thần đã quay về thành Tiryns sau mỗi trận chiến. Nhà tiên tri ở Delphi đã yêu cầu thần phải tuân theo lệnh của người, và thần không bao giờ bội ước.

– Tốt! Tốt lắm! Bây giờ ngươi phải thực hiện một chuyến đi dài, Heracles ạ! Hãy đi tới Crete (tiếng Hy Lạp cổ: Κρήτη), xứ sở của vua Minos (tiếng Hy Lạp cổ: Μίνως) và bắt sống đem về đây con bò mộng mà thần Poseidon (tiếng Hy Lạp cổ: Ποσειδῶν) tặng cho ông ta hồi trước!

– Thần xin tuân lệnh! Tâu đức vua! Thần sẽ đi ngay bây giờ.

– Tuyệt lắm!

Eurystheus chợt dừng lại, như đang muốn thỏa mãn về câu nói tiếp theo:

– Nhưng ta còn một điều phải nói với ngươi…

Heracles kính cẩn nghiêng mình trước đức vua. Eurystheus lớn giọng:

– Hãy trút túi tên của ngươi ra!

Đám đông ồn ào trở lại.

– Tâu đức vua, trong túi chỉ có vũ khí thôi…

– Ngươi không vâng lệnh ta à? Ngươi không muốn rửa sạch tội lỗi quá khứ hay sao?

Heracles không đáp. Chàng không có sự chọn lựa nào khác.

Chàng quỳ gối và dốc túi tên xuống chân Eurystheus.

– Cớ sao ngươi lại giấu đám lông của con chim kia trong túi?

– Những cái lông bằng đồng có bịt thép này có thể sẽ là thứ vũ khí quý giá giúp thần chiến đấu để thỏa mãn ý muốn của bệ hạ. Nó sẽ làm cho mũi tên của thần nguy hiểm cho địch thủ mà thần vẫn không hề vi phạm điều gì đối với đức vua, với nhà tiên tri. Thần tin là…

– Ngươi không cần đến chúng! – Eurystheus thô bạo ngắt lời. – Ta muốn con bò mộng còn sống! Còn sống, người hiểu không?

Copreus không còn giận đức vua đã đối xử bất công với ông ta nữa. Đó chẳng qua chỉ là âm mưu hạ nhục Heracles và để cho chàng biết ai là người có quyền lực mà thôi. Copreus cảm thấy ngưỡng mộ vị vua của mình, người vừa mới chứng minh sự yếu đuối của Heracles.

Đám đông im lặng.

Heracles nhặt lấy cung và mấy cái tên, mũi tên thông thường của chàng rồi lặng lẽ rời thành.

Phía sau, Copreus không ngừng chế giễu:

– Những con chim! Heracles! Ngươi sẽ nhớ đàn chim hồ Stymphalian lắm đấy. Vua Minos ở Crete rất mong muốn có được sự bảo trợ lâu dài của thần biển Poseidon. Ông đã dâng tặng cho thần biết bao của ngon vật lạ hy vọng được lợi lộc từ biển cả.

Và với tấm lòng rộng rãi, thần Poseidon đã tặng cho Minos con bò mộng nổi lên từ dưới đáy biển, to lớn và tuyệt đẹp lạ thường.

Chính vì con vật to lớn và đẹp đẽ như thế mà từ khi có được nó, Minos phản lại lời hứa của mình: ông giữ riêng con vật cho mình và thế lên bàn thờ thần linh con bò mộng đẹp nhất xứ Crete. Nhưng con vật được thay thế này không to lớn và không đẹp bằng con vật mà thần biển đã tặng cho ông.

Sự phản bội này gây cho Poseidon một cơn cuồng nộ. Công cuộc trả thù thật kinh khủng:

Ông đã truyền cho con bò mộng khả năng phá hoại không giới hạn.

Và con bò mộng trở nên cuồng điên, nó chạy toán loạn khắp nơi và phá hoại tất cả mọi thứ.

Từ đó, nó tàn phá xứ Crete bằng cách chạy từ đảo này qua đảo khác, tàn sát hàng loạt người, giẫm nát họ bằng những cái chân đáng sợ.

Xứ Crete chỉ còn là một bãi hoang tàn, chỉ có nỗi lo âu và sợ hãi ngự trị.

Phải bắt sống được một con bò mộng như thế là nhiệm vụ của Heracles.

Chàng đi không mệt mỏi và tới một bến cảng. Chàng tìm cách vượt biển để đến xứ Crete.

Từ lâu lắm rồi, thuyền bè từ Hy Lạp đến Crete ngày càng hiếm hoi.

Những thủy thủ kể lại nhiều câu chuyện kinh sợ.

Biết bao chiếc tàu đã biến mất trong những cơn bão tố điên cuồng mà tác giả của nó chính là thần Poseidon, và không còn một mảnh gỗ vụn nào nổi lên mặt nước: tất cả thuyền buồm, dây rợ đều chìm nghỉm xuống tận đáy đại dương.

Bàn tay thần biển khiến cho mọi vật to lớn đều tan thành bụi, cứ như chỉ là một mảnh sò nhỏ.

Người ta cũng nói rằng Crete sắp sửa chìm vào biển cả. Những người thủy thủ có nhiều kinh nghiệm lại quả quyết rằng, có những lúc từ đài quan sát, họ nhìn thấy hòn đảo như bị dao động. Hết phía nam, đến phía bắc, đến phía đông và tây đều chìm dần dần xuống biển sau những trận càn của con bò mộng Minos.

Một vài người còn cả quyết rằng, nhân danh các vị thần trên đỉnh Olympus, đảo Crete đã thu nhỏ một nửa. Bởi vì những bước chân của con bò mộng đã đạp đi một phần đất đai, nhà cửa, cây cỏ vào lòng đại dương để dâng Poseidon, vị thần không bao giờ biết thỏa mãn.

Họ còn bàn tán rằng con bò mộng là hậu duệ của thần Poseidon và tương lai không xa nữa có thể sản sinh ra hàng trăm con bò mộng như thế mà hậu quả sẽ không thể nào lường trước được.

Heracles đi dọc bến cảng tìm tàu.

Nhưng tới đâu chàng cũng bị từ chối và kèm theo đó là những câu chuyện còn đáng sợ hơn.

Heracles không thấy lo sợ về điều đó vì chàng thấy họ không thật. Nhưng chàng bắt đầu chán nản vì không có thuyền để ra khơi.

Một hôm có người đàn ông to lớn râu rậm gần hết khuôn mặt tới hỏi chàng:

– Có phải anh muốn tới Crete không?

– Vâng! – Heracles trả lời và đợi câu chuyện hoang đường tương tự.

– Vậy thì tốt! Tôi sẽ chở anh tới đó!

Heracles ngạc nhiên về lời mời mọc này. Chàng hỏi:

– Vì sao anh lại muốn chở tôi đi?

– À! Tôi có đi qua Crete, ghé vào một chút cũng không sao. Và tôi có nghe danh tiếng của anh. Anh tên là Heracles phải không?

– Đúng là tôi đây. Song tôi tin là từ lâu rồi không có chiếc thuyền nào ghé qua Crete cả.

– Đúng là cũng không còn nhiều người tới đó nữa. Nhưng cuộc hành trình chẳng có gì đáng sợ, ngoại trừ những trận bão như những nơi khác.

– Những lời nói này chứng tỏ anh thật dũng cảm.

– Anh biết không? Chính anh trai tôi đã chứng kiến cảnh mùa màng bị phá hoại ở Erymanthos.

Từ khi anh bắt sống được con lợn rừng, anh trai tôi lại yên ổn sống như trước, trông cậy vào vườn quả của mình. Chiến thắng ấy thật đáng quý. Bây giờ tôi giúp anh vượt một đoạn đường biển thì có đáng gì.

– Tôi rất cảm ơn anh! – Heracles cười rạng rỡ. – Tôi đã nghĩ rằng chẳng bao giờ tôi tìm thấy chiếc tàu nào ra khơi cả.

– Anh tới để so tài với con bò mộng của Minos đó à? – Người thủy thủ nghi ngờ hỏi.

– Tôi phải bắt sống được nó.

Một tiếng cười lớn vang lên sau câu nói của Heracles.

– Anh phải bắt sống nó à? Anh làm tôi rất thíc thú, Heracles ạ! Nào, ta lên thuyền thôi!

Ngày mai, chúng ta sẽ nhổ neo, anh sẽ còn nhiều thời gian để kể tôi nghe về dự định của anh.

Rạng ngày hôm sau, chiếc tàu nhổ neo ra đi trong tiếng reo hò, la hét cùng nhiều lời bàn tán của đám đông. Những người vừa kinh ngạc mến mộ chuyến vượt biển ấy, lại vừa nghĩ chắc chắn sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại đoàn người ra đi nữa.

Nhưng biển vẫn hiền hòa, gió thổi nhẹ và những thủy thủ cũng dũng cảm, tin chắc vào thành công như chính thuyền trưởng của mình.

Khi thuyền trưởng hỏi thăm Heracles xem chàng định bắt sống con bò mộng bằng cách nào, Heracles đành phải thú nhận là chàng chưa hề có dự định gì cả. Nhưng chàng nghĩ rằng trong lúc nghỉ ngơi ở trên tàu chàng sẽ lưu ý đến điều đó.

Thuyền trưởng rất vui và để Heracles làm những gì chàng muốn.

Heracles đã tận dụng thời gian trên thuyền để suy tính. Chàng quyết tìm mọi cách để hoàn thành việc bắt sống con bò mộng khi đặt chân lên hòn đảo.

Như được báo trước, thần Poseidon không hề cản trở cuộc hành trình.

Tới nơi, thuyền cập bến trong niềm phấn khích vô bờ của đoàn thủy thủ dành cho Heracles.

Chàng từ biệt mọi người, không quên cảm ơn thuyền trưởng.

– Chúng tôi luôn quý trọng anh! – Thuyền trưởng nói. – Anh là con người đầy tài năng. Rồi anh sẽ chiến thắng.

– Tôi cũng hy vọng như thế. Tôi chẳng còn sự lựa chọn nào khác. – Heracles trả lời. Sau những lời nói đầy bí ẩn với thuyền trưởng, Heracles xuống tàu và bắt tay ngay vào việc truy tìm dấu vết con bò mộng Minos.

Heracles nhanh chóng phát hiện ra kẻ đối địch.

Vừa ra khỏi thành, chàng đã tìm thấy dấu vết phá hoại của con bò mộng trải ra trước mắt.

Một vài ngôi nhà trong thị trấn đã bị phá hủy, đất đai bị xới tung giữa những vùng đất trống như thể người ta đã cày lên. Cây cối đổ ngổn ngang trên đường. Có tiếng gầm gào từ xa.

Được vài người dân khá táo bạo động viên, Heracles đi về phía có tiếng động: Đó là hơi thở như bễ lò rèn của con bò mộng.

Hai giờ sau, Heracles không còn nghe thấy tiếng ầm ầm nữa, mà là tiếng sấm hẳn hoi. Con vật điên cuồng lồng lộn, cách xa chàng chừng vài trăm mét.

Da con bò mộng đen thui, cái đầu to như trái núi. Hơi thở của nó như hàng trăm cái lò rèn cùng tuôn ra như bị thiêu đốt bởi ngọn lửa Hephaestus (tiếng Hy Lạp cổ: Ἥφαιστος) cháy lên từ trong bụng.

Đột nhiên, con bò mộng dừng lại, những cái chân của nó nghiền nát cả đá. Nó đã đánh hơi thấy sự xuất hiện của vật lạ.

Heracles không thể quyết định được gì nữa.

Chính con vật đã quyết định sự đối kháng thay cho chàng. Nó quay đầu lại, hai chân trước cào cào trên mặt đất. Vùng ức của nó biến mất dưới đám bụi. Nó rống lên và bắt đầu tấn công chàng.

Nó lao thẳng vào Heracles với một tốc độ khủng khiếp. Nhưng khối thịt di động ấy chỉ đâm vào khoảng trống vì Heracles đã nhanh chóng tránh sang một bên.

Con vật khựng lại. Cái mũi của nó như bốc khói.

Nó lại lao vào chàng lần thứ hai.

Nhưng Heracles lại tránh được. Con vật hẳn phải gườm khả năng phản ứng của địch thủ.

Heracles quyết định chứng minh khả năng của mình theo một cách khác, chàng bắt đầu chạy qua khu rừng. Con bò mộng đuổi theo chàng nhưng trông rất nặng nề. Trong khi Heracles có thể luồn lách qua các thân cây, với sự mềm mại nhẹ nhàng thì con quái vật phải húc đổ cây và phá các hàng dây leo.

Cuộc rượt đuổi kéo dài nhiều giờ.

Không một ai tỏ ra mệt mỏi. Từ một khoảng cách an toàn đều đặn, từng cây to đổ xuống. Rồi hàng ngàn thân cây ngổn ngang trên mặt đất bật cả rễ. Heracles và con quái vật phải đối diện với một khó khăn mới: cả hai đều phải nhảy qua các thân cây.

Với trò chơi này, Heracles dần dần thắng thế.

Cho dù con bò mộng có khỏe mạnh và dẻo dai đến mấy đi nữa, thì với những cú nhảy liên tục, nó cũng phải kiệt sức. Hơi thở của nó đứt quãng, đôi lúc nó phải dừng lại trong khi Heracles vẫn tiếp tục chạy băng băng.

Nhiều giờ nữa lại trôi qua, con bò nhiều lần phải dừng lại nghỉ lấy sức.

Heracles nghĩ đã đến lúc chế ngự được con bò mộng. Chàng đi ra ngoài khu rừng.

Đã mệt nhoài vì chiến thuật của Heracles, con bò mộng đang tính cách lấy lại sức lực. Phát hiện thấy Heracles đổi hướng, nó lại lao vào chàng lần nữa.

Nhưng cú thất bại tiếp theo làm cho nó yếu hẳn đi. Khi nó cào cào hai chân trước, định lao tiếp tới tấn công, hình như nó có chút lưỡng lự.

Heracles chạy tới cạnh nó, nhảy vọt lên lưng con vật. Con vật chạy lồng lộn để hất chàng “kỵ sĩ” xuống đất, nhưng Heracles vẫn bám chặt đôi sừng của nó.

Con vật vẫn tiếp tục, nó đá bổng hai chân sau lên trời, lắc đầu quầy quậy, xoay người tít mù, trở nên điên cuồng hơn vì chàng địch thủ đáng gờm này.

Heracles nhảy xuống đất, hai tay vẫn tóm lấy sừng của con bò mộng và ép nó nằm xuống. Con vật yếu dần rồi đành khuất phục.

Heracles trói bốn chân nó lại, chặt hơn trói con lợn rừng Erymanthos.

Mang trên mình gánh nặng khủng khiếp, trên đường tới cảng, Heracles được dân chúng chào đón nồng nhiệt. Lần này, chàng dễ dàng tìm thấy thuyền để trở về. Dân Crete vui mừng khôn xiết khi thấy con bò mộng hung ác đã vĩnh viễn thôi hoành hành đất đai của họ.

Trên sàn tàu, Heracles nằm thư giãn. Con bò mộng của Minos đã bị thất bại, đang phì phò thở lấy lại sức lực. Hơi thở của nó thổi căng các cánh buồm.

Chương IX – Đàn ngựa cái của Diomedes

Diomedes là một trong những chiến binh dũng cảm và mạnh mẽ trong thần thoại Hy Lạp. Trong tác phẩm “Iliad” (tiếng Hy Lạp cổ: Ἰλιάς) nổi tiếng của Homer (tiếng Hy Lạp cổ: Ὅμηρος), ông được ca ngợi như một người hùng khi tham gia cuộc chiến thành Troy (tiếng Hy Lạp cổ: Τροία).

Ở phần này, Heracles phải đến Thrace để thuần phục và mang về đàn ngựa cái của Diomedes. Những con ngựa này khiến người khác cảm thấy kinh hoàng và ám ảnh vì chúng được Diomedes nuôi dưỡng bằng thịt người. Vì thế, Diomedes trong câu chuyện kể về “Mười hai chiến công của Heracles” được xem như là một nhân vật phản diện.

Trên đường về Hy Lạp, Heracles không nghĩ mình sẽ phải ra khơi một lần nữa.

Trên chiếc thuyền, các thủy thủ chào đón chàng hết sức nồng nhiệt. Từ nay họ sẽ qua lại Crete mà không sợ chìm tàu lần nữa.

Cùng với những truyền thuyết cũ lặp đi lặp lại nhiều lần, giờ đây, lại thêm vào các câu chuyện kể về việc Heracles bắt con bò mộng. Chàng chỉ mỉm cười về điều đó. Chàng lấy làm tiếc vì không gặp lại vị thuyền trưởng hôm nọ đã vui vẻ cho chàng lên tàu. Chắc giờ này ông đang lênh đênh trên những vùng biển xa xôi. Heracles tự hứa với mình một ngày nào đó sẽ quay trở lại nơi đây.

Bao nhiêu tiệc tùng lễ hội được tổ chức chúc mừng Heracles, rồi đến lúc chàng và con bò mộng cũng cập bến. Dân chúng vui vẻ gấp bội phần, song ai cũng cố giữ khoảng cách với con bò mộng.

Mặc dù thân hình to quá cỡ, nhưng con bò mộng đã đánh mất vẻ oai vệ của mình. Lớp lông dày đen giờ bạc thếch vì bụi đất. Cái đầu cứ cúi gầm xuống đất như bộc lộ sự thất bại nhục nhã ê chề.

Con vật giờ đây đã coi Heracles như chủ của nó. Heracles cởi dây trói cho con bò mộng và trèo lên lưng nó. Với phương tiện này, Heracles sẽ trở về Tiryns nhanh hơn.

Chàng mất khoảng hai ngày đường để trở về Tiryns trong tư thế lạ lùng này.

Được dân chúng báo trước Heracles trở về, Eurystheus cho gọi Copreus đến. Họ cùng nhau bàn mưu tính kế cho cuộc thử thách tiếp theo.

Như thường lệ, Hera hết sức bực bội vì Heracles lại chiến thắng.

Eurystheus đột nhiên bảo:

– Này Copreus, nếu như Heracles thích những chiếc tàu nhỏ và hắn cũng biết cưỡi bò mộng như cưỡi ngựa thì ta sẽ cho hắn thỏa mãn, Copreus thân mến ạ!

Copreus không giấu nổi sự ngạc nhiên:

– Tâu đức vua! Liệu ngài định thử thách hắn điều gì? Ngài có tin rằng một ngày nào đó hắn sẽ thất bại không?

– Đừng lo! Copreus! Thần linh không quên chúng ta đâu.

– Nhưng, tâu đức vua! Liệu ngài tin…

– Nghe đây! – Eurystheus ngắt lời. – Đây là những lời ngươi sẽ nói với Heracles.

Trong lúc đó, cư dân thành Tiryns đã tụ tập rất đông quanh con bò mộng của vua Minos.

Đây không phải là lần đầu tiên họ tham dự chào đón Heracles chiến thắng trở về. Với họ, những chiến thắng của chàng đã trở nên thân thuộc.

Họ không ngạc nhiên vì công việc khó khăn mà Heracles đã hoàn thành, có khi họ lại ngạc nhiên nếu mà chàng thua cuộc nữa là đằng khác.

Nhưng điều kỳ lạ là ngày hôm nay, chàng trở về, thu phục được con bò mộng khiến cho nó trở nên hiền lành như một con cừu. Copreus cũng có những suy nghĩ đó và bởi thế rất lấy làm buồn phiền. Dưới mắt ông, Heracles là người luôn luôn thành công, ngược hẳn với những điều Eurystheus nghĩ.

Dù sao, lần này, Copreus cũng muốn biết bằng cách nào Heracles vượt qua được thử thách. Hẳn nhà vua đã có sáng kiến không tồi.

Với suy nghĩ đó, Copreus xuất hiện trước dân chúng với nụ cười nhẹ trên môi.

Heracles, ta thấy rằng thêm một lần nữa, mọi sự lại tốt đẹp với ngươi.

– Dường như ngài có vẻ tiếc nuối phải không Copreus?

– Ngược lại là đằng khác. – Vị cố vấn nói.

– Mỗi một chiến thắng của ngươi lại cho chúng ta cơ hội gặp nhau. Đối với ta đó là một niềm hạnh phúc lớn.

Heracles im lặng, chàng không trả lời con người thích thú chuyển những mệnh lệnh của nhà vua mà trong đó lúc nào cũng bao hàm những ngụ ý cay độc.

– Đức vua của chúng ta, – Copreus nói tiếp, – ra lệnh cho ngươi đi đến Thrace (tiếng Hy Lạp cổ: Θράκη), nơi có những con ngựa cái của Diomedes (tiếng Hy Lạp cổ: Διομήδης) . Ngươi phải bắt sống chúng mang về đây. Ngươi quen làm việc đó rồi, chắc không quá khó khăn so với ngươi. Nhớ cẩn thận nhé, Eurystheus quan tâm đến lũ ngựa này lắm đấy.

Nói xong, Copreus bèn lui vào lâu đài.

Chuyến đi tới Thrace mất rất nhiều thời gian.

Trước hết, Heracles phải đi ra bờ biển kiếm một chiếc tàu ra khơi. Chàng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi vì phải cúi mình nhận những thử thách liên tiếp này.

Những cuộc chiến đấu và đuổi bắt lũ quái vật vừa qua của Heracles không làm cho chàng cảm thấy chán nản hay mệt mỏi. Bởi Heracles đã lựa chọn làm theo lời nhà tiên tri để chuộc lại lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng những cuộc ra đi cùng với nỗi cô đơn đè nặng lên chàng. Chàng nghĩ đến Iolaus, đến Iphicles, đến cuộc đời đã qua, đến Thebes.

Và những cuộc truy tìm dai dẳng để chuộc lại lỗi lầm do Eurystheus ra lệnh dường như chẳng bao giờ kết thúc. Nếu chàng bắt sống được lũ ngựa cái của Diomedes về Tiryns, liệu chàng có thể xóa hết được mọi tội lỗi chưa? Chàng nghi ngại, sợ phải ra đi lần nữa.

Heracles linh cảm điều tồi tệ sẽ xảy đến lần nữa.

Càng ngày, chàng càng làm cho Eurystheus thỏa mãn, và những nhiệm vụ tiếp theo lại càng nguy hiểm và khó khăn hơn. Ngay cả khi chàng rất tự tin vào sức mạnh ý chí cùng năng lực của mình, Heracles vẫn có cảm tưởng rằng định mệnh sẽ buộc chàng phải chết trong một cuộc phiêu lưu nay mai. Ý nghĩ này cũng không làm cho chàng thấy buồn chán. Nếu như các vị thần muốn điều đó, thì chống lại cũng trở thành vô ích.

Nhưng tại sao lại phải tiếp tục như thế? Heracles không hề biết rằng chàng phải thành công như vậy để làm gì.

Những ý nghĩ u ám này làm chàng rối trí suốt quãng đường đi bộ.

Rồi trong lúc qua biển, những ám ảnh biến mất, chàng cảm thấy vui, cho dù chàng không đi trên con tàu đưa chàng tới Crete hôm trước.

Mục đích của chuyến đi lần này đã không gây nên sự chú ý và tính tò mò nơi các thủy thủ.

Họ không hiểu biết nhiều lắm về mảnh đất mà chàng sẽ đến, cũng chẳng có chuyện hoang đường ly kỳ nào được kể về xứ sở ấy cả.

Lần đầu tiên, Heracles không thể hình dung được cái nơi mà chàng sắp sửa đến đó như thế nào. Chàng chỉ biết cái điều mà ai cũng hay: đàn ông ở xứ sở ấy nổi tiếng về tính hiếu chiến, có thể gây hấn với bất cứ ai mới xuất hiện.

Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, con thuyền cập bến Thrace.

Heracles tỏ ra rất sốt ruột để lên bờ và tới lâu đài của vua Diomedes càng nhanh càng tốt.

Chẳng khó khăn gì trong việc hỏi đường, chốc lát Heracles đã thấy trước mắt những cái chuồng ngựa nhốt lũ ngựa của Diomedes.

Thoạt nhìn, chàng đã công nhận lời Copreus không sai. Lũ ngựa hẳn là một gia sản quý hiếm bởi chúng được canh gác rất nghiêm ngặt. Rất nhiều người mang vũ khí thay nhau kiểm soát lối ra vào. Heracles hoàn toàn có thể chống lại và hạ gục đám lính canh. Nhưng chàng cần phải có thời gian và e ngại toán lính trong lâu đài được đánh động. Giải pháp tốt nhất là đợi đêm xuống.

Với bóng đêm, chàng có thể dễ dàng lẻn vào chuồng ngựa, thả toàn bộ số ngựa ra và cùng chúng chạy trốn.

Trong thời gian chờ đợi, Heracles ra ngoài thành, nấp trong một cái chòi bỏ không của mục đồng. Bằng mọi giá, chàng phải ẩn náu kỹ càng, tránh gây ra sự chú ý cho mọi người. Một người lạ mặt luôn bị nghi ngờ có ý đồ xấu, hơn nữa, quả là Heracles cũng có ý như vậy. Nếu không may người ta biết chàng là ai, tất họ sẽ biết mục đích những ngày chàng ở lại Thrace này.

Chàng không hề đi ra khỏi chòi gác, lặng lẽ ngồi đếm thời gian trôi.

Màn đêm dần buông, nhưng ánh sáng hãy còn. Heracles vẫn sợ bị phát hiện. Chàng nán lại đó vài giờ nữa. Nhưng nếu chàng đợi lâu quá, sợ không kịp lúc trời chưa sáng. Heracles mạnh dạn tới gần chuồng ngựa.

Trái với những gì chàng suy tính, Heracles đột nhập dễ dàng vào trong mà bọn lính không hề hay biết gì. Nhưng kìa, một cảnh tượng kỳ lạ đang bày ra trước mắt.

Những con ngựa của Diomedes với dáng vóc thon nhỏ tuyệt đẹp đang xếp thành hàng ngay ngắn trước một cái máng bằng đồng, lặng lẽ cúi xuống ăn.

Lũ ngựa hết sức yên lặng. Heracles tiến lại gần, sẵn sàng cởi dây xích cho chúng. Khi trông thấy chúng đang yên lặng ăn thịt người, chàng không thể nén được tiếng thét kinh hoàng.

Lính tráng mau chóng tập hợp và một trận chiến nổ ra.

Với lưỡi gươm thép của mình, Heracles xung trận giữa đám lính bảo vệ, và lần lượt, quân lính gục ngã dưới chân chàng. Lũ ngựa vẫn điềm nhiên chén bữa tối “thịt người”.

Khi chàng tiêu diệt hết số lính tráng ở đó, Heracles đợi những tên lính khác xuất hiện, nhưng hình như không có còi báo động.

Máng thức ăn đã sạch lì, đàn ngựa đã no nê.

Không chần chừ gì nữa, Heracles lần lượt tháo xích cho lũ ngựa. Nỗi ám ảnh còn đeo đuổi nên chàng chẳng nhận ra bộ lông óng ánh sắc bạc và dáng vẻ dịu dàng kiêu hãnh của chúng. Chợt có người xuất hiện trong chuồng ngựa.

– Làm thế nào mà ngươi dám như vậy? Ai đã cho phép ngươi phá rối bữa ăn của đàn ngựa của ta? Lẽ ra ngươi không nên liều lĩnh đến đây. Ngươi sẽ phải chết, tên lạ mặt kia. Chính bàn tay ta sẽ giết ngươi. Và cái máng ăn này sẽ trở thành nơi yên nghỉ cuối cùng của ngươi.

Lúc này, người lạ mặt mới để ý đến xác của tụi lính tráng. Điều này khiến ông ta càng thêm nổi giận.

– Nhà ngươi đã dám sao? Ngươi đã dám chống lại Diomedes sao? Ngươi đã giết hết những người lính giỏi nhất của ta! Hãy cầu nguyện các vị thần linh đi, ngươi sắp tận số rồi đó.

Diomedes vung gươm lăn xả vào Heracles.

Chàng tránh miếng đòn và đánh trả lại.

Nhưng vua Diomedes là một tay lão luyện về kiếm thuật. Dưới ánh trăng, ánh kiếm loang loáng, lấp lánh. Heracles mau chóng lôi kéo đối thủ ra trước chuồng ngựa: chàng sợ rằng trận chiến sẽ làm lũ ngựa hoảng sợ bỏ chạy.

Khi Heracles ra đòn quyết định với Diomedes thì lũ ngựa đã tuột khỏi xích hoàn toàn, phóng ra ngoài và hí vang trời.

Trước khi chàng kịp giữ chúng lại thì chúng đã lao tới vị chủ nhân và ăn tươi nuốt sống ông ta trước cái nhìn kinh hoàng của Heracles.

Rồi tự chúng trở nên yên lặng, tập hợp lại và chờ đợi.

Heracles quay trở lại chuồng ngựa lấy dây.

Chàng buộc dây quanh cổ ngựa và móc nối chúng lại với nhau.

Âm thanh vang động khắp nơi. Từ mọi ngõ ngách xuất hiện những người đàn ông mang vũ khí. Heracles rời đàn ngựa và chiến đấu với mấy người đến trước chàng. Nhưng chàng nhanh chóng nhận ra rằng chàng sẽ thua cuộc trước một số lượng người lớn như thế. Chàng tránh đám đông, quay lại chỗ đàn ngựa, nhắm con ngựa đầu đàn và nhảy lên cưỡi nó.

Cùng với một tiếng thét lớn, con ngựa phóng đi, kéo theo cả lũ ngựa của Diomedes.

Con đường trở về dường như ngắn hơn lúc ra đi. Ngay khi cập bến, Heracles dong ngựa chạy thẳng về Tiryns. Chàng lại tiếp tục thắng trận thêm một lần nữa. Niềm vui này đã làm cho chàng quên đi những linh cảm không may trước kia. “Dù cho Eurystheus bắt ta đi tận đâu chăng nữa, ta cũng sẽ chiến thắng”. Chàng thầm nhủ như vậy.

Chàng vượt qua cửa thành trong tiếng vó ngựa dồn dập, kéo theo đằng sau đám mây trắng bạc của những con ngựa Diomedes.

Chương X – Chiếc thắt lưng của Hippolyta

Eurystheus giao cho Heracles một công việc khó khăn khác, đó là đi lấy chiếc thắt lưng của Hippolyta về cho con gái mình là Admete. Đây là món quà được thần Chiến tranh dành tặng cho nữ chiến binh giỏi nhất vùng Amazon.

Nhìn thấy Eurystheus và Copreus xuất hiện trước lâu đài, Heracles vội xuống ngựa.

– Thế hóa ra lũ ngựa của Diomedes vẫn chưa ăn thịt ngươi hử? – Vị cố vấn hỏi.

– Im đi Copreus! – Nhà vua nói. – Heracles bạn của chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Anh ta đã mang về đây những chú ngựa đáng sợ nhưng tuyệt vời nhất. Chúng ta phải biết ơn anh ta vì điều đó chứ, phải không?

Eurystheus dừng lại, rồi nói tiếp:

– Ngươi có quyền được ta quý trọng, Heracles ạ! Ta muốn ngươi xứng đáng hơn nữa. Ngươi có biết lòng ngưỡng mộ dân chúng dành cho ngươi không? Dân thành Tiryns hết sức tự hào mỗi lần thấy ngươi hoàn thành nhiệm vụ. Hãy nhìn kìa và nghe họ.

Nói đến đây, Eurystheus giơ tay chỉ vào đám đông. Cứ như chỉ chờ một cử chỉ như thế để bộc lộ sự phấn khởi, đám đông ồ lên tung hô ngợi ca Heracles.

Heracles không hiểu nổi thái độ thay đổi của vị vua. Liệu ông ta đã cho phép chàng kết thúc những cuộc chinh chiến chưa?

Cả Copreus cũng cười và nụ cười ấy cũng không ẩn chứa hàm ý nào cả. Phải chăng ông ta nghĩ rằng mọi người cũng biết ơn người đã truyền lệnh của nhà vua?

Vị vua thành Tiryns giơ tay ra hiệu đám đông im lặng rồi nói:

– Heracles thân mến! Ngươi thực sự không biết rằng tên tuổi của ngươi sẽ còn có thể trở nên lẫy lừng hơn nữa. Trong lâu đài của ta cũng thế, có rất nhiều người mến mộ ngươi. Ngươi chưa biết Admete (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀδμήτη ), con gái ta phải không?

– Tâu đức vua, thần không biết rằng người có một người con gái. Thật là điều kỳ diệu. Nhưng tại sao đức vua lại hỏi thần câu ấy?

– Con gái ta đã theo dõi những chiến công của ngươi ngay từ hôm đầu tiên. Nó muốn gặp ngươi.

– Thần xin tuân lệnh, tâu đức vua!

Eurystheus cười rạng rỡ:

– Ta tiếp tục khen ngợi ngươi về điều này, Heracles. Nhưng trước hết, trước khi gặp ngươi, con gái ta mong được ngươi tặng cho một món quà. Ta sẽ nói ngay cho ngươi biết đó là món quà gì. Ta không giấu ngươi rằng việc này quả là hết sức khó khăn. Tuy nhiên, theo Admete, ngươi hẳn sẽ vượt qua mọi trở ngại. Ngươi biết là con gái ta tin tưởng ngươi đến thế nào rồi đó.

– Thật vinh hạnh cho thần. – Heracles nghiêng mình đáp.

Vậy là Heracles vẫn chưa kết thúc nhiệm vụ của mình. Sự nhã nhặn của Eurystheus chỉ nhằm che giấu một mưu đồ lớn, một thủ đoạn trong ý muốn áp đặt cho Heracles một công việc nặng nhọc. Admete muốn có một món quà ư? Vậy thì chàng phải ra đi để mang về cho nàng món quà nàng muốn, bằng bất cứ giá nào.

– Thưa đức vua, đó là món quà gì vậy?

– Không có gì hơn ngoài chiếc thắt lưng bằng vàng của Hippolyta (tiếng Hy Lạp cổ: Ἱππολύτη), nữ hoàng vùng Amazon (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀμαζών).

Rất xa vùng Tiryns, dân Amazon sinh sống cạnh dòng sông Thermodon (tiếng Hy Lạp cổ: Θερμώδων). Bộ tộc này khá nguy hiểm và đáng sợ, cư dân chỉ toàn là phụ nữ. Nhiệm vụ chính của họ là gây chiến với cư dân các vùng lân cận.

Là những chiến binh gan góc, những người Amazon luôn chiến đấu bằng ngựa và sử dụng cung tên thành thạo hơn bất cứ ai. Cái thắt lưng vàng mà Hippolyta đeo trên mình là món quà của Thần Chiến tranh tặng. Biểu tượng này được dành cho chiến binh giỏi nhất.

Rời Tiryns, Heracles biết rằng lấy được thắt lưng bằng vàng của Hippolyta không phải là chuyện dễ dàng. Đòi hỏi của Admete thật ra chỉ là một âm mưu của Eurystheus nhằm đẩy chàng ra khỏi Tiryns càng xa càng tốt. Mỗi trận chiến lại đẩy chàng đi xa hơn và công việc lại khó khăn hơn. Thử thách lần này lại bắt chàng ra khơi.

Nhưng chuyến đi lần này cũng thuận buồm xuôi gió. Con thuyền đưa chàng tới đảo Paros (tiếng Hy Lạp cổ: Πάρος) rồi tới Mysie (tiếng Hy Lạp cổ: Μυσία). Cuối cùng sau nhiều tuần lễ lênh đênh trên biển, Heracles tới xứ sở Amazon.

Thay vì chiến đấu để chiếm đoạt chiếc thắt lưng, chàng quyết định nói chuyện trước với Hippolyta về đề nghị của con gái Eurystheus. Rồi sau đó hãy hay.

Heracles cập bến, sửa soạn tới lâu đài gặp Hippolyta. Nhưng dân Amazon đã quyết định hoàn toàn khác với dự định của chàng. Một tốp kỵ sĩ phi ngựa tới. Heracles đứng bất động chờ xem họ muốn gì ở chàng.

Đội trên đầu những chiếc mũ cắm lông chim lấp lánh, lại được vũ trang cung tên và rìu, họ lặng lẽ vây bọc Heracles.

Chẳng nói chẳng rằng, ba phụ nữ trẻ xuống ngựa, tước vũ khí của chàng, trói và ném Heracles lên mình ngựa. Rồi cả nhóm vội vã lao đi để lại phía sau một đám bụi mù.

Nếu phản ứng, chắc chắn Heracles lần lượt hạ gục hết bọn họ, nhưng chàng đã xét thấy tốt hơn nên gặp Hippolyta trước khi tỏ thái độ cần thiết.

Vẫn yên lặng như thế, những người Amazon ném Heracles xuống đất rồi đẩy chàng vào lâu đài.

Heracles được dẫn đi giữa hai hàng vệ sĩ với khuôn mặt lạnh lùng vô cảm, khó có thể tìm thấy trên gương mặt của họ chút biểu hiện cảm xúc. Chàng được dẫn qua các gian phòng được.trang hoàng lộng lẫy. Và kia, từ trên ngai vàng, Hippolyta phác một cử chỉ bảo chàng lại gần.

Nhân cơ hội đó, Heracles có dịp quan sát kỹ chiếc thắt lưng mà Hippolyta đang đeo.

– Nhà ngươi muốn gì? – Nữ hoàng hỏi với một giọng trịch thượng.

– Tôi đến gặp nữ hoàng, theo lời của Eurystheus thành Tiryns. – Heracles thận trọng đáp.

– Chà, chà… Vua thành Tiryns! Thế ông ta cho ngươi tới đây để nói gì với ta?

Heracles ngần ngại một lúc trước khi trả lời.

Nếu chàng nói ra sự thật, chắc chắn chàng sẽ nhận được lời từ chối. Còn nếu như chàng nói dối và kéo dài thời gian, chắc chắn nữ hoàng sẽ không tha thứ cho chàng sự sỉ nhục đó. Còn một mình chống lại số đông nữ chiến binh này thì chàng không hề nghĩ tới. Điều đó phải khắc nghiệt bằng tất cả các cuộc thử thách trước đây cộng lại, phải là một tay khổng lồ mới đảm đương được.

Heracles quyết định trình bày với nữ hoàng mục đích thực sự của cuộc viếng thăm của chàng:

– Tâu nữ hoàng, tôi chỉ thực hiện lệnh của Eurystheus thôi. Người giao cho tôi những nhiệm vụ khó khăn và gian khổ nhất.

– Thế sao ngươi lại phục tùng những mệnh lệnh như thế? Ngươi yêu đức vua của mình đến thế sao?

– Người ấy không phải là vua của tôi. Và tôi thấy chẳng có chút tình cảm nào đối với ông ta cả. Tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh của ông ta bởi nhà tiên tri ở Delphi đã khuyên như thế.

– À, vậy ra ngươi là Heracles! Ngươi đã khiến cho các kỵ binh giỏi nhất của ta cũng phải ganh tỵ. Điều này thú vị đấy. Dân chúng ta không thích đàn ông, Heracles ạ! Ta có thể ra lệnh giết ngươi ngay tức khắc. Nhưng ta không cho rằng ngươi là người bình thường. Những công việc ngươi đã làm vượt quá khả năng của người bình thường. Và ngươi lại dám đến đây một mình nữa. Đúng là ngươi thật sự dũng cảm. Hay đây là hành động điên rồ! Ngươi nghĩ thế nào?

– Tôi chỉ tôn trọng ước muốn tuân phục chứ không có gì hơn. Và tôi chấp nhận số phận của mình. Tôi tin chắc rằng người sẽ hành động như thế nếu ở vào địa vị của tôi, tâu nữ hoàng!

– Ta không thể ở vào chỗ của ngươi được. – Hippolyta cười. – Ta có phải giết ngươi không sau khi nghe những lời của ngươi hay là của Eurystheus đã trao cho ngươi? – Khuôn mặt nữ hoàng đã bộc lộ nét đáng sợ.

Heracles tin rằng thời khắc đã đến, nhưng chàng khéo léo không bộc lộ điều gì cả.

– Chính là tôi đã nói ra những lời ấy, đó là suy nghĩ của tôi. Tôi chỉ là một thông điệp viên lạc lối nơi đất khách.

Nữ hoàng đứng lên và với vẻ trịnh trọng nói:

– Được rồi, ta nghe đây! Nói đi!

Nữ hoàng lại ngồi xuống ngai vàng. Một tia nắng làm rạng rỡ chiếc ngai rồi phản chiếu ánh sáng lên hạt cườm trên chiếc thắt lưng.

– Tâu nữ hoàng, tôi đến đây để đề nghị người cho tôi chiếc thắt lưng quý giá mà Thần Chiến tranh đã ban tặng cho nữ hoàng. Eurystheus muốn con gái ông ta có được báu vật này. Bây giờ nữ hoàng muốn đổi nó lấy vật gì? Tôi sẵn sàng tuân lệnh. – Heracles cúi gập người tỏ lòng tôn kính.

Sau một hồi im lặng, nữ hoàng lên tiếng:

– Đứng dậy đi Heracles! Sự táo bạo của ngươi đã thể hiện niềm tin vào dũng khí của mình. Và đó là điều làm ta thích thú.

Hippolyta lại đứng lên.

Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người và sự kinh ngạc tột cùng của Heracles, nữ hoàng tháo chiếc thắt lưng vàng và trao nó cho chàng.

– Hãy cầm lấy chiếc thắt lưng của ta. Ta không muốn đổi chác gì cả, liệu có cái gì có thể thay thế được nó? Ta muốn tặng nó cho ngươi. Bởi vì đây là lần đầu tiên ta thấy một người đàn ông không thốt ra những lời nịnh bợ. Hãy cầm lấy nó và mang về Tiryns! Ta muốn như vậy! Cũng như ta muốn ngươi tiếp tục thành công trong mọi việc. Hãy đi đi và đừng bao giờ xuất hiện trước mặt ta nữa, đó sẽ là một sự xúc phạm mà ngươi phải trả bằng mạng sống của mình!

Heracles cầm chiếc thắt lưng vàng quý giá và thắt nó quanh lưng mình.

Song, trong lúc chàng nghiêng mình cáo từ nữ hoàng thì một trong những nữ chiến binh Amazon tiến lại gần nữ hoàng và thì thầm vào tai nàng. Người đó không phải là một người Amazon mà chính là Hera đã cải trang. Thấy Heracles dễ dàng đạt được chiếc thắt lưng nên bà ta rất bực mình. Bà ta đã nói với nữ hoàng là Heracles tới để bắt nàng.

Hippolyta nổi giận thực sự:

– Vậy là ngươi đã gạt ta! Ngươi đã nói dối! Ngươi cũng giống như bọn đàn ông xảo trá, miệng lưỡi hiểm độc. Ngươi sẽ phải chết! Ngươi sẽ phải chịu những cơn đau đớn khủng khiếp. Hãy bắt tên phản bội này!

Heracles cố gắng bào chữa cho sự vô tội của mình:

– Thưa nữ hoàng! Tôi không hiểu vì sao lại có sự kết tội này. Tôi không hề nói dối, xin nữ hoàng bình tâm!

– Câm miệng! Ngươi đến đây chỉ để bắt ta thôi! Và để giết dân Amazon.

Heracles biết chàng không thể tránh nổi điều chàng lo sợ: chiến đấu với những phụ nữ hung hăng này. Bằng một cú đánh bằng cùi chỏ, chàng hạ gục ngay một nữ chiến binh đứng gần chàng nhất và tước lấy vũ khí, vì vũ khí của chàng đã bị họ lấy mất.

Chàng chạy ra cửa, nhưng người ta đã đóng cửa lại. Heracles nấp đằng sau một cái cột và dùng cung tên của người Amazon. Tên rơi như mưa.

Những chiến binh Amazon ngã xuống, bị thương hoặc chết đi, nhưng những người khác lại thay thế họ. Nhưng chàng thì ngược lại, bị thương tích ít hơn, dầu chân tay có xây xước nhẹ. Chàng vừa chạy vừa chống đỡ và tìm lối ra.

Trong khi chàng cố hết sức mình chạy thật nhanh đến khu vực có chuồng ngựa thì bỗng nhiên nữ hoàng đột ngột xuất hiện. Nàng giương cung nhằm thẳng vào Heracles. Heracles lia lưỡi rìu với một tốc độ kinh hoàng. Lưỡi rìu xé gió bay đi và găm vào đầu nữ hoàng vào lúc nàng kéo dây cung.

Hippolyta chết ngay lập tức và Heracles bỏ chạy. Những người truy đuổi chạy tới nữ hoàng và than khóc. Heracles nhảy lên mình ngựa, phi hết tốc lực và lên thuyền.

Ở Tiryns, Heracles lại được tung hô. Chàng đưa ra trước mặt dân chúng chiếc thắt lưng vàng của Hippolyta, lòng đầy tự hào đã chiến thắng được nữ hoàng. Người đã nghi ngờ chàng phản bội trong lúc nàng là người bội ước. Chàng vẫn không biết rằng chính Hera đã can thiệp vào việc này.

Tiếng la hét, hò reo của dân chúng khiến cho Eurystheus và Copreus phải ra khỏi lâu đài.

Với giọng nói hết sức kiêu ngạo, nhà vua tuyên bố:

– Ngươi lại thắng! Được rồi! Bây giờ hãy trao chiếc thắt lưng vàng đó cho ta!

– Thần nghĩ rằng chính Admete mong muốn được gặp thần.

– Ngươi lầm rồi! Đưa nó đây cho ta, ta không muốn kéo dài câu chuyện.

– Không, Eurystheus! Đây là món quà mà người đòi hỏi tôi phải mang cho Admete. Tôi mong được trao chiếc thắt lưng của Hippolyta cho con gái của người. Tôi đã luôn luôn vâng lời ngài, và bây giờ cũng vậy, tôi luôn vâng lời. Xin cho con gái ngài ra mắt và tôi sẽ trao lại cho nàng chiếc thắt lưng này.

Eurystheus quay sang vị cố vấn. Copreus không còn cách nào biện hộ trước sự thật hiển nhiên và thôi thúc nhà vua cho mời Admete lên. Eurystheus bèn miễn cưỡng ra lệnh.

Lát sau Admete xuất hiện bên cạnh phụ vương của mình. Trái ngược hẳn với cha mình, nàng hết sức hiền dịu. Và sắc đẹp của nàng mới lộng lẫy làm sao!

Heracles đến trao cho nàng chiếc thắt lưng vàng. Admete cảm ơn chàng rồi với vẻ tự nhiên kiều diễm nàng thắt nó quanh người rồi nói:

– Xin cảm ơn người đã mang đến cho ta báu vật mà ta đòi hỏi cha ta. Chỉ có một người đàn ông tài giỏi như người mới chiến thắng được dân Amazon và lấy được chiếc thắt lưng vàng này.

– Tôi chỉ làm tròn bổn phận của mình thôi! – Heracles nói.

– Đúng thế! Quả là nhà ngươi đã hoàn thành nhiệm vụ. – Eurystheus nóng nảy thốt lên.

Sau đó đức vua buộc con gái phải quay trở về lâu đài ngay lập tức. Ông không tưởng tượng được rằng lòng kiêu ngạo của ông đã bị tổn thương khi thỏa mãn sự đòi hỏi của con gái Admete. Heracles cảm thấy hài lòng khi đã buộc được Eurystheus thực hiện lời đã hứa. Hơn thế, mong ước ấy chính là của Eurystheus và lời tiên tri là của nhà tiên tri xứ Delphi. Nhà vua chắc chắn sẽ trả thù này, nhưng Heracles không sợ.

– Đấy là một sự khiêu khích, Heracles ạ! Và ta luôn luôn nhớ đến nó.

– Tâu đức vua, tôi luôn luôn nghĩ rằng ngài có một trí nhớ rất tốt.

– Đủ rồi! Ngươi đã nhận được điều ngươi muốn. Bây giờ thì hãy chuẩn bị mà lên đường đi!

Lo lắng bởi nhà vua bắt Heracles tiếp tục một cuộc phiêu lưu nữa mà chưa bàn tính, thay vì trả đũa nhẹ nhàng, Copreus can thiệp:

– Tâu đức vua, có nên xem xét cẩn thận chi tiết nhiệm vụ sắp tới của Heracles không? Thần nghĩ đức vua không nên vội vàng như thế.

– Copreus! – Eurystheus thô bạo cắt ngang. – Ta nhắc cho ngươi rằng ngươi chỉ là cố vấn chứ không phải là não bộ của ta! Ta hoàn toàn biết rằng bây giờ Heracles phải làm gì!

Nhà vua nổi giận điên người, sau Heracles và Admete, vị cố vấn lại ngang nhiên dám chống lại ông! Vì thế Copreus lại cảm thấy bị xúc phạm thêm một lần nữa. Ông ta tự nhủ: mặc cho nhà vua tự lo liệu với Heracles vì chẳng bao giờ ông ta nghe mình cả!

– Heracles! Tới xứ sở của vua Augeas (tiếng Hy Lạp cổ: Αὐγείας) ngay!

– Tới đất nước của Augeas ư? Thần phải làm gì ở đó?

Eurystheus cười ha hả:

– Một công việc hết sức bổ ích, ta hứa với ngươi như thế!

Chương XI – Khu chuồng ngựa của Augeas

Trong số 12 chiến công của Heracles, dọn dẹp khu chuồng ngựa của Augeas quả là một công việc kinh khủng nhất, bởi những chuồng ngựa đó suốt ba mươi năm qua chưa từng được cọ rửa. Mùi xú uế của nó nồng nặc còn tệ hơn cả ở đầm lầy Lerna hay hồ Stymphalian.

Nữ thần Athena lại một nữa hiện lên chỉ cho Heracles cách để có thể hoàn thành công việc không tưởng này một cách nhanh chóng.

Vua Augeas có rất nhiều đàn gia súc. Đó là một vương quốc rộng lớn với những đồng cỏ bạt ngàn. Nhà vua phải xây dựng những chuồng ngựa hết sức rộng lớn để chứa một số lượng gia súc đông không kể xiết. Người ta nói rằng nhà vua còn có gần ba nghìn bò sữa và bò mộng.

Nhưng Augeas thật cực nhọc vì những chuồng ngựa đó từ ba mươi năm nay không được cọ rửa.

Thử tưởng tượng xem với một số lượng phân như thế thì môi trường phải ô nhiễm tới mức nào.

Eurystheus đột ngột dừng lại theo một thói quen cố hữu, vừa thỏa mãn vừa gây sự ngạc nhiên cho người đối thoại.

Heracles không có ý định làm cho nhà vua thỏa mãn về điều này, chàng kiên nhẫn đợi những lời tiếp theo. Vì thế Eurystheus buộc phải nói tiếp:

– Thế nào? Ngươi có ý niệm gì về những điều ta nói hay không?

– Thần chẳng có chút ý niệm nào cả. – Heracles trả lời.

– Như thế có lẽ sẽ tốt hơn cho ngươi đấy.

– Đó là điều khiến thần ngạc nhiên. Đức vua lo lắng cho thần đấy ư? – Heracles hỏi.

Nhà vua khéo léo lẩn tránh câu hỏi của Heracles bằng một cử chỉ tỏ vẻ khinh bỉ. Công việc mà ông áp đặt cho chàng lần này là hết sức siêu việt và nặng nề. Ông ta tỏ vẻ vui mừng vì điều đó.

– Ta giao cho ngươi trọng trách lau chùi các chuồng ngựa của vua Augeas. Cho ngươi được quyền chọn lựa cách thức và thời gian tiến hành. Ngươi có thấy là ta rộng lượng…

– Thật không xứng đáng với người khi phải giao cho thần nhiệm vụ này. Và cũng không xứng đáng với thần khi chấp nhận nó.

Heracles không nén được cơn xúc động mạnh.

Trí tưởng tượng của Eurystheus quả là vô biên.

Hay đúng hơn là trí tưởng tượng của người đã mớm lời cho ông ta.

– Nhưng ngươi sẽ chấp nhận, Heracles ạ! Ngươi sẽ chấp nhận! Thật đơn giản bởi vì ngươi không có sự lựa chọn. Ngươi hiểu không? Không có sự lựa chọn!

– Vâng! Thần sẽ lau chùi chuồng ngựa của Augeas. Và thần sẽ chăm chỉ làm việc đó! Rồi thần sẽ tốn ít thời gian hơn là người tưởng, thưa đức vua! Hãy tin thần, sẽ có một ngày mà người sẽ phải trả nợ cho các vị thần hay chính với chúa tể Zeus. Và ngày đó, Eurystheus, tôi sẽ không ở vào địa vị của ngài được. Không ai có thể thay ngài chịu sự phán xét của thần linh.

Heracles tới nơi, được vua Augeas đón tiếp ngay. Ông ta uể oải ngồi trên ngai vàng. Về mọi chuyện Augeas quả thực thật biếng nhác. ông ta không thích hoạt động và quyết định, trước mắt ông thời gian và công việc tách rời khỏi ông.

Chính sự phó mặc ấy đã giải thích việc chuồng ngựa của ông ta ba mươi năm chưa được quét dọn.

Ngay cạnh lâu đài, Heracles đã cảm thấy ngột ngạt vì xú uế, một mùi hôi thối nồng nặc còn tệ hơn cả ở đầm lầy Lerna hay hồ Stymphalian.

Mới nhìn ai cũng có thể nhận ra rằng những người sống trong lâu đài hay ở các vùng lân cận chắc hẳn phải tập quen với điều đó từ hàng bao nhiêu năm nay. Mà người đầu tiên đó là nhà vua của họ. Nếu Eurystheus không gửi Heracles tới để lau chùi quét dọn thì Augeas vẫn tiếp tục sống trong hoàn cảnh như thế.

Heracles cho rằng một công việc như thế là hết sức tầm thường. Chàng phản đối cũng vô ích vì mỗi mệnh lệnh do Eurystheus đưa ra đều phải được thực hiện. Chàng cho rằng công việc này, ngoài việc lập chiến công, còn là phương cách giải thoát cho những người nô lệ. Heracles chợt thấy cần phải đòi hỏi một thù lao ở vua Augeas.

Từ trên ngai vàng, Augeas im lặng giương đôi mắt nặng nề quan sát Heracles. Đứng bên phải ông là người con trai Phyleus (tiếng Hy Lạp cổ: Φυλεύς) cao lớn bệ vệ, cũng là người phụ tá của nhà vua. Heracles không hiểu làm thế nào một chàng trai trẻ như Phyleus lại có thể chịu đựng nổi sự lười biếng cũng như sự thờ ơ đối với công việc của quốc gia như thế của cha mình. Chẳng lẽ anh ta lại tôn trọng quyền lực của cha mình đến vậy? Đó chính là cách giải thích duy nhất mà Heracles có thể chấp nhận được.

Cuối cùng thì Augeas cũng mở một mí mắt ra, con mắt của ông ta “sinh động” như mặt nước đông đặc của đầm lầy. Ông ta nói với một giọng buồn bã:

– Như vậy, chính Eurystheus đã gửi ngươi đến để quét dọn chuồng ngựa cho ta! Ý nghĩ kỳ cục thay! Ta xin cam đoan với ngươi rằng đàn bò của ta không hề khổ sở khi phải ở đó. Thế thì, để làm gì chứ! Một khi dọn dẹp xong, nó lại bẩn thỉu như cũ, rồi lại phải tiếp tục. Nghĩ tới điều đó ta thấy nản quá rồi.

– Nhưng thưa cha! – Phyleus nói. – Những chuồng ngựa này cần phải được dọn dẹp. Con tin rằng, nếu ý định của Eurystheus có thể thực hiện được thì toàn thể dân chúng đều được hít thở một bầu không khí trong lành. Các nước láng giềng cứ than vãn về điều đó mãi rồi cha ạ!

Augeas vẫn biếng nhác nói:

– Bọn họ chỉ ghen tức với đàn gia súc gia cầm của ta thôi chứ không có gì khác hơn đâu. Giả sử ta có đồng ý đi nữa thì Heracles cũng không thể một mình hoàn thành được một công việc như thế. Phải mất nhiều năm trời. Nghĩ thế ta thấy nản lắm rồi.

Cứ hết một câu nói Augeas lại thở dài. Điều này làm cho con trai ông thấy bực bội. Heracles chưa bao giờ thấy một ông vua khiếm nhã như thế. Có những ông vua độc tài hiếu chiến; những ông vua nhân hậu, công bằng và biết lo lắng cho thần dân thì có; nhưng một ông vua mỏi mệt chẳng làm gì thì chưa bao giờ chàng gặp. Đúng là Augeas cũng phải có điều gì làm cho một vị khách kinh ngạc!

Heracles nói:

– Tôi nghĩ việc dọn dẹp chuồng ngựa là rất cần thiết. Và hơn thế, như con trai ngài khẳng định là các nước láng giềng rất khó chịu. Và thật là phi lý nếu họ tới gây chiến tranh với ngài bằng một lý do như thế. Liệu ông có mất gì đâu nếu để tôi làm việc này?

– Đúng thế thưa cha, cha còn sợ gì?

Augeas thở dài não nuột như những người gần đất xa trời rồi đưa tay gõ nhẹ lên chỗ tựa của ngai vàng.

– Ta thấy những chuyện này làm phiền ta quá. Rất phiền. Ta đã có rất nhiều việc phải lo.lắng rồi. Trông coi việc lau chùi chuồng ngựa làm cho ta thêm mệt mỏi mà thôi.

– Nhưng thưa ngài, ai dám đòi hỏi ngài phải lo lắng trước khi công việc được làm xong? Tôi sẽ dọn dẹp chuồng ngựa và sẽ quay về Tiryns báo cho vua Eurystheus biết.

Augeas lại gõ gõ tay vào bệ trước khi trả lời:

– Ta mệt mỏi vì cuộc tranh luận này lắm rồi.

Heracles, ngươi cứ làm cái việc mà ngươi tin là có thể làm được đi. Còn ta, không bao giờ muốn nghe nhắc đến nó nữa.

– Thưa đức vua Augeas, tôi cần phải yêu cầu ngài một khoản thù lao nhỏ. Ngài là người đầu tiên cho rằng công việc của tôi rất khó khăn cực nhọc và ngài còn nghi ngờ tôi sẽ không thành công. Ngài cũng thấy rằng bất cứ một công sức nào cũng xứng đáng được nhận thù lao.

– Ngươi muốn ta trả lương cho ngươi ư? Nhưng ta có mời ngươi đến đâu. Eurystheus gửi ngươi đến đấy chứ. Ngươi nên hỏi ông ta về chuyện này.

– Thưa cha! Con cũng đồng ý với cha. Nhưng con tin rằng vua thành Tiryns sẽ không trả lương cho Heracles đâu. Việc anh ta phục vụ cha cũng đáng để cha cảm ơn đấy chứ.

Augeas nhắm tịt mắt lại. Trả hay không trả cho Heracles thì có quan trọng gì với ông đâu.

Không vì thế mà ông ta giàu hơn hay nghèo đi, gia tài của ông ta đã lớn quá rồi.

– Vậy ngươi muốn ta trả công ngươi cái gì?

– Tôi chỉ mong có được một phần mười đàn gia súc của ngài thôi.

– Ồ! Chỉ có vậy thôi sao. Ngươi sẽ có ba trăm con vật, ta sẽ chẳng mất mát gì nhiều.

Câu trả lời bộc lộ sự chán nản của Augeas, hay bộc lộ sự thiếu tin tưởng vào Heracles. Chàng thấy nên rút lui để bắt đầu công việc, vấn đề này sẽ bàn lại sau.

– Thôi được! – Heracles nói. – Tôi xin coi Phyleus là nhân chứng cho cuộc thỏa thuận này.

Tôi sẽ tới chuồng ngựa ngay bây giờ.

– Tùy ngươi! – Augeas vừa ngáp vừa nói.

Heracles chẳng cần phải xác định phương hướng của chuồng ngựa. Cái mùi xú uế đã chỉ đường cho chàng tới nơi. Khu nhà thật rộng rãi, đàn gia súc thật đông đúc. Heracles đi vòng quanh khu nhà để quan sát rồi đến cái cửa chính. Lớp phân dày lưu cữu lâu ngày làm chàng nghi ngờ cả chính bản thân mình.

Liệu chàng phải có phương cách nào để tiến hành công việc?

Chàng rời xa khu chuồng ngựa để suy tính.

Augeas quả là có lý: chàng sẽ phải mất nhiều năm ròng! Liệu chàng có phải từ chối không? Dĩ nhiên là không rồi. Điều đó sẽ chẳng còn nghĩa lý gì sau những chiến công lẫy lừng của chàng. Nhưng chàng thấy lo lắng vì không thể phác thảo nổi một kế hoạch. Trước nay, chàng đều quyết định rất nhanh chóng mọi việc. “Hay là vẻ lười nhác của Augeas đã ảnh hưởng đến ta?” – Heracles nghĩ. Trong khoảnh khắc, chàng đã mường tượng ra việc tới hỏi thăm ý kiến Phyleus – chàng trai trẻ thông minh. Hẳn anh ta sẽ có những ý kiến bổ ích cho chàng.

Heracles định đi tìm Phyleus thì đột nhiên chàng nghe có tiếng nói mơ hồ:

– Nước! Heracles! Nước!

Heracles quay ra sau. Chẳng có ai cả. Chàng đang mơ ư?

– Nước! Chỉ có nước mới dọn nổi. – Giọng nói huyền bí ấy lại lặp lại.

Nước ư? Thế còn cái gì nữa? Cần phải có một khối lượng rất lớn. Rồi còn phải mang nó vào trong chuồng ngựa. Nhưng sức lực và hai tay của chàng không thể làm nổi điều đó.

– Mắt của ngươi, Heracles! – Giọng nói lại cất lên. – Đừng quên đôi mắt của ngươi. Có lần ta đã nói rồi mà!

Athena! Đúng là Athena vừa tới giúp chàng thêm một lần nữa, Athena đã theo chàng, đã chỉ đường cho chàng dưới bộ dạng một mục đồng, và cứ ở bên chàng mà Heracles không hề hay biết.

Heracles chợt nhìn thấy nguồn nước mà chàng cần. Bao quanh lâu đài và khu chuồng ngựa là hai con sông Alpheus (tiếng Hy Lạp cổ: Ἀλφειός) và Peneus (tiếng Hy Lạp cổ: Πηνειός) đang cuồn cuộn chảy như gọi mời chàng.

Không đợi chờ gì nữa, Heracles quay trở lại khu chuồng ngựa và bắt tay vào việc đầu tiên. Chàng dùng kiếm khoét hai lỗ hổng lớn trên hai bức tường ngang hai dòng sông, rồi hai lỗ khác trên bức tường đối diện.
Trong khi chàng làm việc, có một người hầu vội chạy tới báo cho Augeas.

Nhà vua rời lâu đài và giận dữ khi nghe tin Heracles đang phá hoại khu chuồng ngựa của mình. Ngài quát:

– Heracles! Ngươi điên đấy à? Thay vì lau chùi thì ngươi lại phá hỏng chuồng ngựa của ta.

– Xin nhà vua đừng lo lắng. Chuồng ngựa của người sẽ sạch sẽ và các bức tường sẽ được bịt lại trước khi mặt trời lặn.

Augeas trở về.

– Ta rất tò mò muốn chiêm ngưỡng một công trình vĩ đại như vậy!

– Rồi ngài sẽ thấy! Trước hết ngài hãy đưa mọi người đi xa khỏi chuồng ngựa.

– Được! Ta sẽ ra lệnh theo ý ngươi. – Augeas ngáp uể oải.

Nhà vua chậm chạp rời khỏi nơi đó. Heracles lại tiếp tục công việc của mình.

Những lỗ hổng đã được mở, chàng lại tiếp tục đào một con kênh sâu và rộng. Sau vài giờ nước hai con sông đã nối liền với nhau. Vừa lúc ấy mặt trời bắt đầu lặn. Chàng báo cho Augeas và Phyleus biết.

Nhà vua cùng con trai đứng theo dõi ở hai bên bờ kênh theo sự chỉ dẫn của Heracles. Chàng tiến về phía hai con sông. ở đó, chàng tháo chốt ở đầu con kênh và trong giây lát, hai con sông Alpheus và Peneus xối xả đổ nước vào con kênh.

Vài phút sau, nước chảy tràn ra mọi phía, rửa sạch khu chuồng gia súc và cuốn theo mọi rác rưởi ra biển. Chẳng mấy chốc, không khí trở lại trong lành.

Augeas hết lời ngợi khen:

– Ta phải công nhận ngươi là một người hết sức thông minh.

– Thưa cha! Bầu không khí thật trong trẻo. Làm sao mà chúng ta có thể chịu đựng được sự ô uế trong một thời gian dài đến vậy? Tôi còn nhớ trước đây không lâu, thành phố quả là hôi hám. Heracles, không bao giờ chúng tôi hết biết ơn anh.

– Những gì chúng ta giao ước thế là đủ rồi. Tôi phải lên đường về Tiryns. Xin trao lại cho tôi ba trăm con bò.

Đôi mắt của Augeas sụp xuống. Chuyện này thật là phiền toái.

– Nghe đây Heracles! Tất cả những gì ngươi làm quả thật đều rất tốt cho ta. Nhưng…

– Nhưng sao?

– Này, chính là Eurystheus bắt ngươi phải lau chùi chuồng ngựa chứ đâu phải ta.

– Ngài từ chối trả công ư? Phyleus, có phải anh đã tận tai nghe cha anh hứa thưởng công cho ta ba trăm con bò không?

Augeas quay sang con trai nghĩ: “Liệu hắn có nói điều ngu xuẩn không đây?”

– Đúng thế Heracles! Cha ta đã hứa trọng thưởng ngươi. Ta nhớ điều đó.

Trước lời nói của Phyleus, Augeas chỉ biết thở dài. Đứa con trai ông lương thiện và trung thực, chẳng giống ông tí nào.

– Đúng là ta đã hứa điều đó. – Nhà vua nói.

– Nhưng chính là bởi tại ta không tin ngươi có thể làm được điều đó. Người trần mắt thịt nào có thể làm được thế? Nếu ta biết trước được rằng ngươi có thể làm được thì ta sẽ không hứa hẹn cho ngươi một phần mười đàn gia súc của ta. Ta mệt mỏi lắm rồi Heracles ạ! Ta chán những cuộc tranh luận liên miên thế này. Cảm ơn ngươi về tất cả mọi điều. Đường trở về đang sẵn sàng đợi ngươi đó.

– Không thưa cha! Lời hứa phải được thực hiện! Không thể biện minh bằng những lý lẽ khác.

– Tôi được quyền có ba trăm con bò, thưa Augeas. Tôi đã cống hiến tất cả trí tuệ và sức lực để phục vụ ngài. Trong một thời gian ngắn tôi đã hoàn thành được công việc cực nhọc đó.

Augeas thật là tiến thoái lưỡng nan: Heracles đã chứng tỏ mình là người có sức mạnh phi thường. Nếu như Augeas không thực hiện lời hứa, Heracles có thể gây nên điều tệ hại. Nhưng nhường cho chàng một phần mười số gia súc thì quả là ông ta sẽ rất buồn phiền. Quyết định thế nào đây?

Phyleus cắt ngang dòng suy nghĩ của cha.

– Thưa cha! Nếu cha không đồng ý trao quà tặng như cha đã hứa, con sẽ không còn là con trai của cha nữa. Con sẽ rời bỏ lâu đài và đất nước này!

– Còn tôi, tôi có thể giết ngài đấy! – Heracles đe dọa Augeas.

Augeas không lo sợ. Lời đe dọa của Heracles chỉ là một giả thiết. Chắc là chàng chẳng dám giết ông ta đâu. Và hơn thế, đứa con trai rắc rối của ông đã cho ông biết nguyên do việc Heracles phải tới đây.

– Ngươi sẽ không giết ta, Heracles ạ! Ngươi sẽ phải tuân lệnh Eurystheus mãi mãi đến cuối đời, không bao giờ có thể hy vọng mọi sự kết thúc. Ngươi sẽ không nhận được một con bò nào cả đâu. Còn con, Phyleus! Đứa con ngu xuẩn không hiểu gì về quyền lực của một vị vua, nếu con muốn bỏ đi thì hãy đi đi! Cả hai hãy đi khuất mắt ta, ta mệt mỏi lắm rồi. Có thần Zeus chứng giám, ta mệt mỏi lắm rồi.

– Không, cha không thể đuổi con, nếu con còn có thể gọi cha như thế! Trước tất cả các vị thần trên đỉnh Olympus con rất hổ thẹn đã là con trai của cha. Cha không thể đuổi con, nhưng con sẽ ra đi.

– Ngài thật không xứng đáng có một người con như thế, Augeas ạ! – Heracles tiếp lời. – Có thể chính vì anh ấy mà tôi không giết ngài. Nhưng một ngày không xa tôi sẽ quay lại đây, và ta sẽ báo thù.

Augeas trả lời bằng những cái ngáp dài.

12 chiến công của Heracles (Hercules) – Thần thoại Hy Lạp
Đàn bò của Geryon

Chương XII – Đàn bò của Geryon

Heracles bị Eurystheus giao cho công việc đi tới Erytheia mang về đàn bò của Geryon để hắn ta dùng làm tế lễ cho Hera. Geryon là một kẻ có ba thân mình, ba cái đầu cùng với sáu sáu cánh tay rất dữ tợn nhưng vẫn bị Heracles dễ dàng đánh bại.

Lẽ ra ngươi đã chuộc được tội lỗi của mình, Heracles ạ, và kết thúc thời gian cầm tù nô lệ nếu ngươi không đòi hỏi Augeas trả thù lao. Ngươi sẽ phải chịu đựng thêm một thử thách nữa.

Copreus nói với vẻ cương quyết và bực bội cứ như thể ai làm ông ta tổn thương. Tuy nhiên, trong lúc thuật lại chi tiết về công việc mình đã làm, Heracles thấy việc mình đòi hỏi một khoản thù lao là chuyện bình thường.

Những điều Copreus vừa nói khiến cho chàng tức giận hơn là việc phải trở về tay không. Xét về mọi mặt, chàng không phạm một sai lầm nào cả. Rõ ràng rằng đó chỉ là cái cớ để buộc chàng phải thực hiện một công việc khác.

– Ta không muốn nghe những lời dối trá. – Heracles trả lời. – Ta không phải là một đứa trẻ mà người ta ru ngủ bằng những câu chuyện đẹp đẽ. Ngươi có biết điều đó không, Copreus?

Vị đệ nhất cố vấn không để ý gì hết. Ông ta chỉ quan tâm đến chuyến đi của Heracles thôi.

Nhưng Eurystheus bảo Copreus nên kiên nhẫn và Copreus nghĩ rằng nhà vua chưa tìm được cách nào để cho Heracles đi xa. Chàng luôn chiến thắng, luôn khuất phục được lũ quái vật dưới nước, đã vượt qua biển và mang về tất cả những gì ông ta yêu cầu. Copreus không thể chịu được thứ đạo đức giả của nhà vua sau mỗi chiến thắng của Heracles. Ông ta giận dữ và bất mãn vì luôn phải thay mặt Eurystheus đương đầu với Heracles và những chiến công lừng lẫy. Không chịu đựng nổi nữa, ông ta bèn thổ lộ với nhà vua:

– Tới lúc nào thì Heracles mới kết thúc công việc cuối cùng của mình, tâu đức vua?

Eurystheus phác một cử chỉ tỏ vẻ bất lực. Ông ta lộ vẻ buồn bã trong cái nhìn u tối, khuôn mặt mỏi mệt cứ như đã trải qua hàng đêm không ngủ. Liệu Hera đã quên mất ông ta rồi sao? Trong khoảnh khắc đó, Copreus nghĩ rằng Heracles sắp được giải phóng. Nhưng không, Eurystheus không để Heracles phải đợi, ông ta tuyên bố:

– Ngươi phải ra đi, Heracles ạ, đi tới Erytheia (tiếng Hy Lạp cổ: Ἐρυθεία) xứ sở của Geryon (tiếng Hy Lạp cổ: Γηρυόνης) và mang về đây đàn bò đỏ của ông ta. Ta phải tế lễ cho Hera.

– Ở Erytheia ư? Nhưng đó là nơi tận cùng của trái đất. Nơi ấy mặt trời lặn bên bờ đại dương cuối cùng.

– Ngươi nghi ngờ chính bản thân mình à? – Copreus hỏi đầy kiêu ngạo. – Ngươi đã từng đi rất xa kia mà.

Vị cố vấn cũng như nhà vua đều tin rằng Heracles không thể nào trở về Tiryns được nữa.

Chưa bao giờ Eurystheus có ý tưởng hay đến như vậy. Copreus lại cười khoan khoái. Nhưng Eurystheus lại có đầu óc nhìn thấy trước tương lai thảm hại của một vị vua trước khi dấn thân vào cuộc chiến. Đó là hình ảnh một vị vua bị chiến bại và một vị cố vấn mơ mộng đang ẩn nấp trong lâu đài.

Heracles vượt qua cổng thành và biết rằng cuộc hành trình này sẽ không ngơi nghỉ và có khi trong nhiều tháng chàng không được trở về nhà. Viễn cảnh này thật chẳng vui vẻ gì: Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra trong thời gian dài như thế?

Heracles đi bộ như một kẻ lữ hành cô độc về phía biên giới châu Phi. Trong nhiều tuần như vậy, chàng cứ đi, đi mãi. Càng đi thời tiết càng thay đổi, nhiệt độ càng nóng dần lên ở Hy lạp.

Một hôm, chàng cảm thấy nản chí thật sự.

Dưới ánh nắng khủng khiếp ban ngày, chàng sợ không bao giờ tới được Erytheia. Chàng thấy tiếc vì đã không lên tàu đi từ Hy Lạp. Chắc chắn là chuyến đi trên biển sẽ nguy hiểm hơn với một chặng dài như thế nhưng chắc chắn là sẽ không nóng nực bằng. Và trước sau gì chàng cũng phải ra khơi tới Geryon khi tới bờ biển phía tây Phi châu.

Nhưng liệu có thể đi tới đó với sức nóng như thế này không? Heracles tự biết mình có sức khỏe và nghị lực phi thường nhưng khả năng chịu đựng của chàng là có hạn. Chàng nghĩ rằng chắc chắn Eurystheus đã tính đến việc chàng sẽ thất bại trên con đường dài nóng bỏng này. Không nén được sự hoang mang và bối rối, Heracles không kiềm chế được cơn giận dữ vô cớ. Chàng điên cuồng lấy cung tên nhằm hướng thần Mặt Trời và bắn. Lẽ ra thần Helios (tiếng Hy Lạp cổ: Ἥλιος) có thể coi đó là một cử chỉ xúc phạm và trừng phạt Heracles. Nhưng người có thể hiểu được cơn giận dữ của Heracles. Vì thế với lòng rộng lượng, thần Mặt Trời thả xuống cho chàng một chiếc chén vàng để Heracles sử dụng như một con thuyền bay, giúp chàng vượt qua Đại Tây Dương và đến Erytheia.

Khi chiều đến, chàng sử dụng nó.

Sau vài giờ bay trên chiếc chén vàng của thần Helios, Heracles đã tới eo biển Gibraltar. Chàng dựng lên ở đó hai cột đá khổng lồ (về sau người ta gọi là cột Heracles) để tưởng niệm vị thần Helios. Hai cột đá đó đánh dấu vòng quay của vị thần và phân chia ranh giới ngày đêm. Heracles tới Erytheia và mau chóng trả lại chiếc chén vàng cho Helios, đồng thời cảm ơn vị thần đã giúp chàng đi lại thuận tiện và nhanh chóng.

Xứ sở của Geryon bên bờ Đại Tây Dương là một thế giới hoàn toàn xa lạ, nghèo nàn và ít dân. Tóm lại Geryon sống một mình với những con bò màu đỏ. Đó là gia sản của ông. Ông ta chỉ cho ở bên mình một mục đồng tên là Eurytion (tiếng Hy Lạp cổ: Εὐρυτίων). Người này cũng có phụ tá là một con chó hai đầu hết sức hung dữ và xấu xí. Nhưng chủ của nó còn kinh khủng hơn nữa. Ông ta nổi tiếng là người mạnh nhất trên thế giới – Geryon cao lớn lạ thường, có ba đầu, ba thân mình và sáu cánh tay. Heracles chỉ nghe kể như vậy chứ chưa hề được chứng kiến.

Nhìn từ xa, những chú bò đỏ đã nổi bật.

Khi Heracles nhận ra chúng, chàng không kìm chế được sự ngạc nhiên và thấy cuộc phiêu lưu thật thú vị. Chàng tiến lại đồng cỏ nơi những chú bò đang nhẩn nhơ ăn uống và buộc chúng lại. Eurythion bực mình, vẻ mặt tức giận, tay cầm một cái chày tiến lại phía chàng. Chưa từng có ai dám động đến đàn bò của chủ hắn cả.

Mặc dù thân hình không cao lớn lắm nhưng gã mục đồng này có sức khỏe nhất định. Đối diện với Heracles, hắn biết sức mình không địch nổi. Hắn phô trương sức mạnh bằng cách xoay cái chày tít mù ở phía trên đầu và cố tạo ra một vẻ dữ tợn. Nhưng Heracles đá cho hắn một cú khiến cho hắn bất tỉnh nhân sự. Đúng lúc ấy con chó Orthos (tiếng Hy Lạp cổ: Ὄρθρος) lè lưỡi ra và xông vào. Nó không sủa mà gầm gừ như con sư tử. Hai cái lưỡi đen thè lè ra khỏi mồm, hàm răng thì trắng nhởn và những chiếc răng nanh nhọn hoắt nhe ra như chỉ chực xông vào cắn xé người khác.

Còn Heracles, chàng vung chày lên trông còn dữ tợn hơn cả gã mục đồng. Nhưng mỗi lần chàng định tấn công một cái đầu thì cái đầu kia lại đe dọa chàng.

Sợ đàn bò hoảng sợ, Heracles bắt đầu chạy, con chó hai đầu đuổi theo sau. Chàng làm cho nó mỏi mệt bằng cách không chỉ chạy mà còn đổi hướng. Con chó phải xoay người liên tục.

Con chó vừa xấu xí vừa ngu ngốc. Nó làm theo các cử động của Heracles nhưng không cảm thấy được ý đồ của chàng.

Khi Orthos đã liêu xiêu, hai cái mõm hồng hộc thở, Heracles bèn bồi cho nó một chày xuống hai cái đầu của nó. Con chó ngã lăn ra, chết không kịp ngáp.

Những tiếng kêu của con chó và lũ bò trên đồng cỏ đã báo động cho Geryon. Ôg ta sợ có chuyện không hay đã xảy ra. Sợ đàn bò đỏ bị giết, bị trọng thương hoặc bị bắt. Tiếng gầm càng ngày càng ồn ào hơn trên đồng cỏ. Geryon vội vã rời lâu đài và xuống thung lũng.

Trước khi đến cánh đồng nơi đàn bò đang ăn cỏ, Geryon đã trông thấy chúng từ xa đang chạy tán loạn tứ phía vì bị săn đuổi bởi một người nhanh nhẹn lạ thường. Nhưng Geryon không thể rảo bước nhanh hơn được. Ba thân mình, ba cái đầu cùng sáu cánh tay, ở mỗi cánh tay mang theo một cái chày tạo nên một trọng lượng rất lớn. Không phải là một con người, mà là một khối hoạt động nặng nề chậm chạp kinh dị, một cái đầu lắc lư bên trái, một cái lại lắc lư bên phải. Còn một cái đầu nữa thì cứ ngơ ngẩn như không được điều khiển. Cái thân hình khổng lồ của Geryon thật là cả một vấn đề mỗi khi muốn di chuyển.

Mải mê đuổi bắt đàn bò, Heracles không nhận ra Geryon đang tới gần chàng. Nhưng ông ta lại biết rõ chàng muốn gì. Lúc này chàng đã cột được quá nửa đàn bò lại với nhau và nghe chừng còn tiếp tục nữa. Chàng sẽ bắt cả đàn bò. Geryon tức giận và lao xuống đồi. Toàn bộ mấy cái đầu, thân mình và mấy cánh tay quả thật là nặng nề khi di chuyển. Khi ông ta tới được đồng cỏ thì nghe chừng đã mệt mỏi lắm rồi.

Ông ta dừng lại lấy sức và lao về phía Heracles.

Cùng một lúc trên khối thịt to đùng ấy, sáu cánh tay vung lên với sáu cái chày. Nhưng Geryon chỉ có thể vung tay lên từng đợt. Những cái chày vùn vụt quất trong không khí như bão táp, đối thủ nào chắc chắn cũng phải gờm.

Heracles nhận ra rằng chàng không thể kháng cự lâu hơn được. Lối thoát duy nhất của chàng là làm sao lôi cuốn được Geryon vào một mục tiêu khác, vì hắn rất khỏe và to lớn nhưng sức không mấy dẻo dai.

Heracles lặp lại giống như với con chó. Chàng buộc hắn phải chạy lòng vòng giữa đám bò đang hoảng loạn.

Có một con bò đã tặng cho cái đầu bên phải của Geryon một cú đá rất mạnh. Lão ta bị mất thăng bằng không biết chạy đằng nào nữa.

Cơn giận dữ khiến hắn ném cho Heracles hai cái chày như ném lao. Chúng xé gió lao vào không khí và cắm xuống đất. Heracles cũng giương cung. Mũi tên thứ nhất cắm vào trán của cái đầu bên trái. Cái đầu ở giữa bất động, hoang mang. Chiếc mũi tên thứ hai xuyên qua đầu với một tiếng xé gió ghê rợn.

Heracles hết sức ngạc nhiên bởi chàng hạ gục Geryon dễ đến như vậy. Cái chết của chủ khiến cho đàn bò bình tĩnh lại. Heracles không hề gặp phải một khó khăn nào khi bắt những con còn lại và buộc chúng lại với nhau.

Heracles trở về Hy Lạp bằng một lộ trình khác. Chàng di chuyển chậm chạp vì lũ bò đi rất chậm và còn do phải chống cự với những kẻ trên đường có ý định cướp đàn bò của Geryon.

Sau khi vượt qua Iberia (tiếng Hy Lạp cổ: Ἰβηρία), chàng về tới Gaul (tiếng Hy Lạp cổ: Γαλατία).

Ở phía tây nam nước này, những người Ligurians (tiếng Hy Lạp cổ: Λιγυες) chắc sẽ cướp lấy đàn bò của chàng nếu như Zeus không can thiệp. Ngài đã làm mưa đá xối xả lên người họ và họ phải bỏ chạy.

Chàng tới xứ Sicily (tiếng Hy Lạp cổ: Σικελία) và Hera lại ghen tị với thành công của chàng một lần nữa. Bà ta huy động một đàn ruồi trâu đến tấn công đàn bò của chàng. Những con ruồi này đốt cho lũ bò trở nên điên loạn. Heracles không ngại khó khăn ngày này qua ngày khác tiêu diệt lũ ruồi và tập hợp đàn bò lại như cũ.

Sau một tháng trở về đầy mỏi mệt, Heracles đã tới thành Tiryns.

Khi dân chúng báo tin cho Eurystheus biết chàng đã trở về, ông ta không thể tin được. Việc Heracles vắng nhà lâu đến thế khiến cho ông ta nghĩ rằng chàng đã bị mất tích. Hơn thế, việc chàng trở về, không phải tay không mà còn dẫn theo đàn bò đỏ của Geryon khiến cho Eurystheus hết sức tức giận và làm cho vị đệ nhất cố vấn kinh hãi vô cùng. Heracles đã có thể đi khắp thế giới trong vài năm và bao giờ trở về cũng chiến thắng vang dội. Chàng đã đi tới tận cùng ranh giới của thế giới và đã trở về, mệt mỏi nhưng hoàn toàn khỏe mạnh.

Eurystheus đọc lệnh cho Copreus và ông này vội vã truyền lệnh cho một vị cố vấn khác. Cả hai con người có tầm quan trọng bậc nhất của Tiryns đều không dám đối mặt với Heracles, không dám chứng kiến tận mắt sự thất bại ê chề của họ. Nhà vua quyết định hiến đàn bò cho Hera, để cảm ơn bà ta đã giúp mình và thuyết phục bà ta tiếp tục giúp đỡ ông.

Chương XIII – Những quả táo vàng trong khu vườn của người Hesperides

Bằng sự thông minh của mình, Heracles đã bắt được thần Nereus, khiến thần đành phải chỉ đường cho chàng đến nơi có những quả táo vàng trong khu vườn của người Hesperides. Tại đây, Heracles tiếp tục cho thấy sự mưu trí của mình khi đối đầu với Atlas – một người khổng lồ bị thần Zeus phạt phải đứng vác cả vòm trời trên đôi vai to lớn của mình.

Cuối cùng, có một vị cố vấn của vua Eurystheus tới, rất bình tĩnh, đưa tay đón chàng ở bậc tam cấp. Ông báo cho chàng biết quyết định của Eurystheus về việc hiến đàn bò của Geryon cho Hera. Với giọng nói khá đơn điệu, ông thông báo cho Heracles về thử thách tiếp theo.

Khi biết rằng chàng phải tới miền bắc để lấy những quả táo vàng trong vườn của Hesperides (tiếng Hy Lạp cổ: Ἑσπερίδες), Heracles không nén được tiếng thở dài, giống như tiếng thở dài của Augeas vậy. Sự kiên nhẫn không làm cho chàng nản chí, nhưng hình như Eurystheus đẩy chàng đi bất cứ nơi nào ông ta muốn, chỉ cần càng xa Tiryns và càng lâu thì càng tốt. Có thể chàng không trở về được nữa. Tới chỗ những người Hesperides ư? Vậy thì tại sao lại không tới địa ngục?

Heracles mệt mỏi nói:

– Tới miền bắc ư? Nhưng tới tận đâu? Tôi không biết khu vườn của những người Hesperides ở đâu cả.

Vị cố vấn trả lời:

– Ta cũng không biết. Nhiệm vụ của ta chỉ là chuyển cho anh mệnh lệnh của Eurystheus mà thôi. Những điều khác không có gì liên quan đến ta cả. Và ta cũng không quan tâm gì hơn nữa.

– Có phải tôi phải tới phía bắc không? – Heracles nghi ngại hỏi.

– Chính Copreus đã nói với ta như thế. Nhưng ngươi cứ đi tới nơi đâu ngươi muốn. Điều cốt yếu là ngươi phải mang về cho Eurystheus những quả táo vàng. Phải vậy không?

Heracles hiểu rằng chẳng có ai ở Tiryns biết các khu vườn ấy ở đâu. Việc nói đi về phía bắc chỉ là để cho chàng rời thành càng sớm càng tốt. Hơn thế, cái vườn có táo vàng ấy chỉ có thể là vườn của một vị thần và những người Hesperides chỉ là người canh giữ.

– Cái vườn ấy là của vị thần nào vậy? – Heracles hỏi.

– Ai bảo đó là của một vị thần? Khu vườn này là của những người Hesperides. Chính đức vua đã bảo ta như thế!

Heracles thấy chỉ mất thời gian vô ích.

– Vậy thì hãy đi báo với đức vua rằng ta sẽ mang những quả táo vàng về, cho dù ta có phải tới địa ngục. Ta sẽ tự khắc tìm thấy đường đi!

– Heracles giận dữ nói thêm.

Vị cố vấn thấy lo sợ, vội đi vào lâu đài.

Heracles bỏ lại thành Tiryns phía sau lưng, lòng vừa âu lo vừa bối rối. Từ khi chàng tới phục vụ Eurystheus, đây là lần đầu tiên chàng ra đi mà có ít sự chỉ dẫn như vậy.

Chàng đi vài ngày về hướng bắc, gặp ai cũng hỏi han. Song chẳng có người nào được nghe nói về khu vườn của người Hesperides cả.

Heracles nghi ngờ về hướng đi. Chàng lưỡng lự nhưng lại đi tiếp. Chàng gặp một mục đồng.

Cậu ta nói rằng mình biết khu vườn tuyệt diệu ấy ở đâu, nhưng không thể nói cho Heracles biết được điều gì hơn.

Một ngày nọ, chàng gặp một ông lão đang ngồi dưới một gốc cây bên đường. Người này biết khu vườn ấy nằm ở đâu, tuy không chính xác. Ông không thể nói nó nằm ở xứ sở nào mà chỉ có thể nói nó ở bên sông Eridanus (tiếng Hy Lạp cổ: Ἠριδανός).

– Không xa lắm đâu! Chỉ mất vài ngày đường! Đến đó, ngươi sẽ gặp được thần biển Nereus (tiếng Hy Lạp cổ: Νηρεύς). Chỉ có thần mới biết khu vườn ấy ở đâu.

Heracles tìm gặp những tiên nữ sông Eridanus chẳng mấy khó khăn. Đó là một con sông nước trong xanh yên lặng chảy nhẹ nhàng giữa hai bờ rợp bóng cây xanh và hoa lạ. Trên một thảm rong rêu có nhiều nữ thần của dòng sông đang vui tắm.

Một nữ thần gọi Heracles tới với giọng thánh thót:

– Ngươi là ai? Hỡi con người lạ mặt kia?

Ngươi muốn gì?

– Tôi tên là Heracles. Tôi đi tìm thần Nereus và tôi tin rằng các nữ thần có thể chỉ cho tôi chỗ ở của thần. Một nữ thần khác giọng dịu dàng nói xen vào:

– Vì sao ngươi mong gặp Nereus ?

Heracles ngần ngại. Chàng có phải nói sự thật với các nữ thần không?

– Ngươi không trả lời sao, Heracles? – Nữ thần thứ nhất hỏi.

– Thưa vâng! Tôi hy vọng thần Nereus sẽ vui lòng chỉ cho tôi xứ sở có khu vườn của người Hesperides, nơi tôi cần phải tới. Tôi được Eurystheus vời đến đó.

– Đúng vậy! – Một nữ thần khác nói. – Thần Nereus biết bí mật đó. Nhưng liệu thần có hé lộ cho ngươi biết không? Thần không muốn bị làm phiền. Hơn thế, ngươi còn phải bắt được ông ấy nữa. Bắt được ông ấy, ngươi có hiểu không?

Nói đến đó, các nữ thần bật lên tiếng cười trong như thủy tinh, không có chút gì chế nhạo.

Nhưng các nữ thần biết Heracles chưa hiểu hết. Sau khi nói cho chàng biết Nereus sống ở đâu, các nữ thần đồng loạt tung mình xuống dòng sông Eridanus, làm nước sông bắn lên tận trời.

Heracles bất động vài phút sau cảnh tượng ấy. Chàng đang mơ chăng? Không còn chút dấu vết nào trên thảm rong rêu và trên đồng cỏ đầy hoa chứng tỏ rằng các nữ thần vừa ở đó. Nước sông Eridanus vẫn yên bình chảy xuôi.

Heracles lên đường, lòng đầy mơ mộng.

Ở nơi này, bờ đại dương được phủ một lớp áo mịn màng. Bãi cát vàng óng ánh chạy dài ngút tầm mắt, bọt biển kéo vào phủ lên đó, trông xa như những đám mây bồng bềnh.

Heracles đi bộ trên bãi biển với tâm trạng thư thái, quên hết những nỗi mỏi mệt đã qua và cả mục đích của chuyến phiêu lưu này. Chàng đang ở trong một khung cảnh thần thánh chỉ có vẻ đẹp và sự thanh thản ngự trị.

Cuối bãi biển, đối mặt với đại dương là một cái động to lớn, sâu hun hút và tối tăm, được bao quanh bởi những cột đá xanh xám. Đó là nơi thần biển Nereus ngự trị. Heracles bước đến lối vào hang động, một dòng suối nhỏ dát vàng chảy róc rách, từ trên cao xuống vượt qua bãi cát hòa vào biển cả. Heracles không có một hình dung mơ hồ nào về Nereus cả. Ngoại hình ông ta thế nào? Nhớ lại lời khuyên của các nữ thần về việc Nereus không muốn bị quấy rầy, chàng thận trọng lướt nhẹ nhàng vào động.

Phải mất vài phút chàng mới làm quen được với bóng tối. Cái động có vẻ thiếu sinh khí. Thế nhưng, trước mặt chàng có le lói ánh sáng. Chàng mạnh dạn dấn bước. Đi theo dòng nước vào sâu bên trong, Heracles tới đoạn có ánh sáng. Nhưng dòng nước lúc này không lấp lánh ánh bạc nữa mà chuyển thành xanh xám.

Có một bếp lửa đang tàn dần. Trên chiếc giường cát khô có một người có bộ râu trắng muốt đang nằm ngủ, không hề có vũ khí bên cạnh. Heracles đặt tay lên vai ông ta.

– Ai dám phá rối giấc ngủ của ta thế? – Ông choàng tỉnh và hỏi như vậy.

– Tôi là Heracles và tôi đi tìm Nereus.

– Ngươi vừa mới đánh thức ta dậy đấy! Hãy để ta yên.

Nereus ngồi xuống bãi cát và xoa xoa bộ râu.

– Hãy đi khỏi đây ngay! Ta phải đi ngủ lại.

Ta đã làm việc quá nhiều rồi.

Heracles dịu giọng, e ngại thần Nereus phật ý:

– Xin thần hãy nghe tôi! Tôi phải tới vườn của những người Hesperides. Ngài có thể chỉ giúp tôi nó ở đâu không? Rồi tôi sẽ đi ngay!

– Ta sẽ không nói cho ngươi biết điều đó. Và ta đang rất buồn ngủ. Hãy đi khỏi đây ngay!

– Nhưng ngài chỉ cần trả lời cho tôi một câu hỏi thôi. Những nữ thần sông Eridanus đã chỉ cho tôi đến đây.

Thần Nereus lập tức bật dậy nói:

– À! Mấy cô nàng ấy hả?

Rồi Nereus biến mất ngay lập tức. Heracles đảo mắt nhìn xung quanh nhưng chẳng thấy có gì cả. Bếp lửa dường như cháy tiếp, ngọn lửa liếm lên tận mái vòm. Heracles nghĩ tới câu nói của các nữ thần:

– Phải đuổi bắt ông ta.

Heracles nhìn kỹ ngọn lửa và thấy nó mang hình dáng bộ râu của Nereus. Không ngại ngần, chàng tóm lấy ngọn lửa và siết chặt. Một giọng nói nặng nề vọng ra từ đôi bàn tay chàng:

– Nhân danh Zeus, ngươi có để cho ta yên không?

Rồi ngọn lửa nhảy chập chờn trên đất cứ như một chú chim. Nó lớn dần lên rồi biến thành một chú sư tử đỏ rực, sắp sửa lao vút đi. Heracles nhảy lên lưng nó và tóm cổ nó lại không cho chạy thoát.

– Nhân danh Zeus! Ngươi có để cho ta đi không?

– Tôi chỉ thả ngài ra lúc nào ngài trả lời câu hỏi của tôi.

Vì mải nói mà Heracles buông lỏng tay. Con sư tử chớp lấy cơ hội nhảy vào con suối, nhanh chóng biến thành một con cá vảy vàng to đùng và sắp sửa bơi ra đại dương.

Heracles đuổi theo sau và nhanh tay bắt được con cá khi nó sắp qua cửa hang. Nereus thật sơ suất khi hóa thân thành con cá. Giờ đây, Heracles nắm con cá trong tay dễ dàng hơn với ngọn lửa và con sư tử.

Con cá vùng vẫy trong tay Heracles và kêu lên:

– Ngươi làm ta nghẹt thở lắm, thề có Zeus! Ngươi làm ta nghẹt thở. Làm thế nào ta nói cho ngươi được nếu ngươi cứ tóm chặt cổ ta như thế?

– Ngài biến hóa thật khôn lường, thần Nereus ạ! Nhưng tôi không để cho ngài thoát đâu! Nếu tôi không tóm chặt cổ ngài thì ngài sẽ quẫy thoát và hóa thân lần nữa. Ngài hãy nói đi và tôi sẽ để cho ngài ngủ yên. Ngài nói càng sớm thì càng có cơ hội thoát thân sớm. Ngài không mong muốn được ngủ tiếp ư?

Nereus chịu thua, cảm thấy bực bội và bị ép buộc trước lý lẽ của Heracles.

– Có Zeus chứng giám! Ngươi thật là cứng cổ, Heracles ạ! Hãy đi về hướng tây rồi đi thẳng mãi. Ngày mai, ngươi sẽ tới vườn của những người Hesperides. Bây giờ hãy thả ta ra.

– Ngài nói sự thật đấy chứ? – Heracles vừa hỏi vừa siết cổ con cá mạnh hơn.

– Đúng thế! Đúng thế. Có Zeus chứng giám!

– Vậy thì ngài hãy ngủ tiếp đi!

Heracles thả con cá ra. Trước khi chạm đất, nó đã lại biến thành thần Nereus trong bộ dạng ban đầu.

Vừa đi về cuối hang, Nereus vừa nói:

– Hãy coi chừng Ladon (tiếng Hy Lạp cổ: Λάδων), hắn sẽ không cho ngươi vào đâu.

– Ladon là ai vậy?

– Ta ngủ rồi đấy, có Zeus chứng giám.

Nereus mau chóng lại bên cạnh ngọn lửa và ngủ thiếp đi. Heracles thấy mình tìm hiểu thế đã đủ. Chàng từ biệt Nereus với chiếc giường cát và rời khỏi hang, đi về phía tây.

Quả là Nereus không nói dối. Ngày hôm sau, Heracles đã tới vườn của những người Hesperides.

Một khu vườn kỳ diệu trồng toàn các loại cây hiếm, chim chóc ca hát rộn ràng.

Về nhân vật Ladon, khi Heracles tới lối vào khu vườn, chàng trông thấy một con rồng đang đợi chàng ở đó:

– Hãy đi đường khác! – Ladon nói và phụt ra một luồng lửa đỏ rực.

Nhưng Heracles không nghe. Chàng đã gài một mũi tên vào cung và bắn vào mồm Ladon.

Con rồng hét lên:

– Ta sẽ giết ngươi! Ta sẽ giết ngươi!

Heracles đã kịp bắn thêm vài mũi tên nữa.

Với một tiếng gầm như tiếng bễ lò rèn của thần Hephaestus, Ladon phụt ra hàng luồng lửa đỏ rực rồi lại chuyển thành khói đen. Con rồng ngã xuống và chết.

Heracles dọn xác Ladon sang một bên để đi vào vườn, bỗng có tiếng nói cất lên từ phía sau, đúng hơn là phía trên đầu chàng:

– Tại sao ngươi lại muốn vào vườn của người Hesperides?

Heracles ngước mặt lên. Đó là Atlas (tiếng Hy Lạp cổ: Ἄτλας), người khổng lồ được các vị thần giao cho nhiệm vụ vác trên đôi vai to lớn của mình cả vòm trời.

– Tôi đến đây để tìm những quả táo vàng theo lệnh của vua Eurystheus.

– Vậy ngươi là Heracles. Dù cho ta không được đi đâu hết, nhưng những chiến công của ngươi đã vang tới tận tai ta. Ta bị phạt phải đội trời, giống như ngươi phải chinh chiến vậy. Định mệnh là thế. Hesperides là các con gái của ta, và các vườn này là của chúng. Hy vọng chúng sẽ để cho ngươi hái táo vàng. Nhưng ta có thể giúp ngươi đấy.

– Giúp tôi ư? Nhưng bằng cách nào, Atlas? Với cả vòm trời trên lưng như vậy, làm sao ngài có thể giúp tôi được?

– Ngươi rất khỏe. Ta biết là ngươi có sức khỏe của các vị thần linh. Ngươi có đủ sức đỡ bầu trời giúp ta một lát, trong thời gian ấy ta sẽ tới chỗ các con ta xin táo vàng cho ngươi.

Heracles suy nghĩ một lúc. Đây phải chăng là một âm mưu? Lại một âm mưu nữa chăng? Hơn thế, gánh cả bầu trời trên vai thật quá sức đối với chàng.

– Ngươi nghi ngờ sức mạnh của ngươi chăng?

– Atlas cười hỏi.

– Tôi yếu hơn ngài, ngài hãy nhìn tôi xem.

– Ta biết! Nhưng ngươi không phải vác nó lâu như ta đâu. Ta phải mang bầu trời này từ nhiều năm rồi. Trong khi ngươi mang nó giúp ta, ta sẽ được thư giãn cơ bắp chút ít. Chúng cứng như đá hoa cương rồi. Ta giúp ngươi và ngươi cũng giúp ta, một sự công bằng đấy chứ, phải không?

– Vâng! – Heracles trả lời lòng vẫn còn ngờ vực.

– Vậy thì ngươi đồng ý mang hộ ta hay thân chinh đến gặp các con ta?

– Nếu ngài hứa làm nhanh mọi việc, tôi mong chính ngài trao đổi với các con ngài. Tôi sẽ thay thế ngài ở đây.

Atlas bảo Heracles nhón chân và đưa hai bàn tay lên trời. Lúc chàng làm như vậy xong, Atlas hạ vòm trời thấp xuống ngay đôi tay Heracles.

– Đó. Ngươi thấy nó không quá nặng phải không? – Atlas nói và vươn người ra.

– Nhưng ngài phải nhanh lên đấy.

– Đừng lo. Ta sẽ trở lại ngay khi lấy được những quả táo vàng.

Với những bước chân nhanh nhẹn, người khổng lồ bước tới vườn người Hesperides. Heracles dù nặng gánh trên vai, vẫn vui vẻ mỉm cười nhìn Atlas đang rất đỗi vui mừng vì được tự do trong giây lát. Nhưng nhìn thấy người khổng lồ được tự do, chàng không khỏi lấy làm lo lắng.

Nếu anh ta không giữ lời hứa thì sao? Heracles thấy mình không thể đỡ bầu trời mãi được. Liệu Atlas có thuyết phục được các con để xin cho chàng mấy quả táo vàng không?

Những câu hỏi như thế liên tục khuấy động tâm can chàng trong lúc Atlas khổng lồ vắng mặt.

Hơn thế, đội một bầu trời quả là nặng nhọc kinh khủng. Heracles mồ hôi chảy đầm đìa, cố sức giữ bầu trời không rơi xuống. Các cơ bắp của chàng đã cứng lại, gáy chàng cứng đờ. Mỗi lúc, chàng lại nhận thấy mình đã sai lầm khi chấp nhận lời đề nghị ấy. Lẽ ra chàng phải đối mặt với người Hesperides. Chàng đã hạ gục nhiều quái vật, vậy mấy cô gái thì đáng gì.

Khi Atlas quay trở lại, Heracles thở phào nhẹ nhõm nói rằng suýt nữa thì chàng đã buông bầu trời ra.

– Cẩn thận đấy Heracles, không được yếu đuối như thế. – Atlas nói. – Chúng đẹp đấy chứ? –  Atlas nói thêm và giơ giỏ táo ra.

– Đẹp hơn cả tưởng tượng. Xin cảm ơn ngài đã mang chúng về cho tôi… Nhưng, – Heracles vừa thở hổn hển vừa nói, – tôi mong ngài sớm trở về vị trí của mình. Tôi mệt mỏi lắm rồi.

Atlas đặt giỏ táo dưới chân Heracles.

– Ta sẽ về vị trí của ta, ta hứa với ngươi như thế. Nhưng…

– Nhưng sao? – Heracles hỏi.

– Này, ta nghĩ rằng ta có thể mang giỏ táo này tới cho Eurystheus. Ta chạy nhanh và sẽ mau chóng trở về. Như thế, đôi chân ta sẽ được thư giãn chút ít. Với công việc này, không chỉ có cái gáy và đôi tay ta đau đớn, ngươi thấy rồi đấy. Tất cả các cơ bắp đều hợp lại mà nâng đỡ bầu trời. Ta sẽ đi đến Tiryns và khi trở về…

– Lúc đó vòm trời sẽ rơi xuống mặt đất! – Heracles ngắt lời.

– Không, đó không phải là một ý hay.

– Không phải vì tôi không muốn giúp ngài, mà do tôi không có khả năng chịu đựng hơn nữa. Một khối lượng như thế vượt quá cả khả năng của tôi.

– Ta chắc là không phải thế. – Atlas nói.

Heracles thở dốc, cố thư giãn các cơ bắp nhằm không cố sức một cách vô ích khi chàng chưa buộc được Atlas trở lại vị trí của mình.

Atlas nằm dài trên cỏ, nhấm nháp tự do của mình. Ngài duỗi thẳng chân tay và Heracles sợ ngài khổng lồ sắp sửa ngủ trưa.

– Atlas, tôi thề với ngài là tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

– Đừng lo! Rồi sẽ quen ngay thôi. Khi ta từ Tiryns trở về, ngươi sẽ khỏe hơn cả bây giờ nữa.

Atlas nằm dài ra và uể oải nhai cỏ. Heracles trầm ngâm suy nghĩ. Chàng phải mau chóng tìm ra lối thoát. Liệu các thần có thể đến cứu giúp chàng không? Có lẽ có bởi cuối cùng chàng cũng tìm thấy một sáng kiến.

– Atlas này, ngài có lý đấy. Tôi sẽ có thể thay thế ngài trong khi ngài trở về Tiryns, và mọi chuyện sẽ ổn cả.

– Ta thật vui mừng vì ngươi đã nghĩ lại. – Atlas vui mừng nói. – Ta sẽ ngủ một lát rồi sẽ đi tìm Eurystheus.

– Tốt lắm, thật ra ngài phải được ngủ một chút. Tất cả các vị thần đều thiếu ngủ. – Heracles khôi hài nói. – Nhưng ta có một yêu cầu nhỏ.

Miệng vẫn luôn mỉm cười, Atlas đứng dậy và lại gần Heracles.

– Ta nghe đây.

– Tôi muốn ngài chỉ cho tôi bằng cách nào có thể nâng bầu trời này tốn ít sức hơn. Tôi có cảm giác mình đặt tay không đúng chỗ. Ngài có thể chỉ giúp tôi được không?

Atlas nhìn xem cách Heracles mang bầu trời trên vai. Là người đã thạo việc này, ông nghĩ mình có thể chỉ cho chàng cách tốt hơn. ông ta nói:

– Ta sẽ chỉ cho ngươi.

Atlas vươn đôi tay ra, xòe bàn tay và ghé người vào chỗ của Heracles. Chàng lợi dụng phút ấy, buông bầu trời ra.

– Xin cảm ơn lời khuyên của ngài, cảm ơn sự giúp đỡ của ngài, Atlas ạ, tôi không bao giờ quên ơn đâu. Và tôi cũng cảm ơn các con gái ngài đã cho tôi những quả táo vàng này, tôi phải mang về cho Eurystheus ngay.

– Ngươi… ngươi đi sao? – Atlas hỏi lại khi biết Heracles đã lừa mình. – Nhưng mà…

Atlas im bặt. Mỗi người có vị trí và số phận của mình. Không ai có thể thay thế điều đó được.

Và cũng không ai có thể mang được bầu trời thay cho ông ta. ít nhất thì cũng nhờ Heracles mà Atlas có thể nói chuyện với các con, và có thể mộng mơ đôi chút. Nhưng ông ta cũng không khỏi buồn lòng khi thấy Heracles dần xa với giỏ táo trên tay.

12 chiến công của Heracles (Hercules) – Thần thoại Hy Lạp
Con chó ba đầu Cerberus của Hades

Chương XIV – Xuống địa ngục

Heracles phải xuống địa ngục mang về con chó ba đầu Cerberus hung tợn. Đây được xem là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất trong số 12 chiến công của Heracles, vì chàng sẽ phải đối mặt với Hades – một vị thần bất tử, chúa tể của địa ngục tối tăm.

Chính Eurystheus là người đích thân đợi Heracles trước lâu đài. Ông ta đã hay tin chàng đã kết thúc tốt đẹp cuộc chinh chiến và mang về một giỏ táo vàng từ vườn của các Hesperides.

Chính Hera đã tới báo cho ông ta tin đó và bày tỏ sự bực bội của mình. Eurystheus đã phản đối mạnh mẽ. Trong tất cả mọi chuyện, chính ông ta là người luôn tuân lệnh. Ông ta thấy mình không phải có trách nhiệm trong sự thất bại liên tục vừa qua. Nếu Hera không thể làm cho Heracles thất bại, thì ông ta có thể làm điều gì hơn nữa?

Đôi mắt của nữ thần đen như nước sông Styx (tiếng Hy Lạp cổ: Στύξ) nơi địa ngục và sắc nhọn, có thể giết chết Eurystheus như những mũi tên tẩm độc. Hera giờ đây chống lại cả Eurystheus, cả Heracles và cả chồng mình là Zeus mà bà ta nghi ngờ đã giúp Heracles trong mọi việc. Phải kết thúc mọi chuyện với “cái tên kiêu ngạo” này bằng cách tống hắn vào vương quốc của những xác chết: Linh hồn của hắn sẽ lạc lối, lang thang không mục đích giữa các bức tường màu đen nơi Hades (tiếng Hy Lạp cổ: ᾍδης) ngự trị.

Đây là thử thách lần thứ mười hai và cũng là lần cuối cùng mà chàng sẽ không thể trở về nữa.

Hera tin chắc như vậy và nói với Eurystheus:

– Ngươi có thể thông báo với hắn rằng đây là thử thách cuối cùng của hắn. Tất cả những ai đã xuống địa ngục đều không thể trở về được nữa!

Nữ thần cười rất lạ, nụ cười khiến Eurystheus rùng mình. Ông ta chợt thấy thương hại Heracles. Ông ta hẳn không muốn ở vào địa vị của chàng.

Những cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống của Eurystheus. Nụ cười của Hera khiến ông lạnh toát cả người. Lúc từ biệt vua thành Tiryns, nữ thần nói với một giọng nặng nề:

– Hãy yêu cầu hắn ta xuống địa ngục mà không đem theo bất cứ một thứ vũ khí nào.

Eurystheus gật đầu đồng ý. Khi Hera đã tan biến vào không gian, Eurystheus cảm thấy một.luồng khí lạnh đang len lỏi trong huyết quản mình.

Khi Heracles đến, bên cạnh Eurystheus còn có Copreus và nhiều vị chức sắc khác của thành Tiryns. Một cuộc hội họp tuy đông đủ như thế nhưng không lấy gì làm tốt lành. Heracles đặt giỏ táo vàng xuống dưới chân nhà vua.

– Tâu đức vua! Như ngài đã yêu cầu, tôi đã mang về đây cho ngài những quả táo vàng của vườn người Hesperides. Ngài có hài lòng về kẻ tay sai của ngài không?

Eurystheus tỏ ra không quan tâm đến lời nói của Heracles. Câu nói của chàng tan nhanh trong gió.

– Heracles này, – nhà vua bắt đầu, – một lần nữa ngươi lại hoàn thành nhiệm vụ và ngươi có thể thấy rằng ta vui mừng vì điều đó.

Vẻ mặt u tối của Eurystheus đối nghịch hẳn với những lời lẽ của ông ta. Có chuyện gì xảy ra ở thành Tiryns vậy?

– Ta rất hãnh diện về những quả táo vàng này. Ngươi đã hoàn toàn chiến thắng. Chính vì thế ngày hôm nay ta vui mừng báo cho ngươi biết rằng ta trả tự do cho ngươi.

– Tôi được tự do rồi ư, tâu đức vua? – Heracles bồn chồn hỏi.

Đức vua chưa nói hết câu, Copreus xen vào:

– Hãy nghe cho hết đã!

– Đúng! Ngươi được tự do. Miễn là ngươi thỏa mãn thử thách cuối cùng.

Đức vua dừng lại, hơi trịnh trọng một chút.

– Ta hứa trước thần dân thành Tiryns là sẽ trả tự do cho ngươi ngay sau thử thách cuối cùng. Những năm qua, ngươi đã chứng tỏ sự trung thành của mình. Thật vô lý khi tiếp tục buộc ngươi phải chịu đựng mọi thử thách trên mặt đất này. Ta long trọng tuyên bố rằng món nợ của ngươi sẽ được trả vào cuối cuộc chinh phục này.

– Thần xin dân chúng thành Tiryns làm nhân chứng. Vậy thần phải làm gì?

– Ngươi hãy xuống địa ngục và mang con chó gác cửa Cerberus (tiếng Hy Lạp cổ: Κέρβερος) về đây.

– Xuống địa ngục ư? Nhưng thưa đức vua, ngài biết rằng không có một người trần gian nào xuống đó mà lại trở về được.

– Ngươi không phải là một người tầm thường, nếu không ngươi đã thất bại trong những chiến công trước rồi. Con sư tử Nemea không phải là một con sư tử tầm thường ngươi cũng đã hạ được nó. Giờ đây ngươi phải đi xuống địa ngục mà không mang theo vũ khí gì. Hãy đưa cho ta cung tên, gươm, chùy của ngươi. Dù ngươi giết được con chó Cerberus hay bắt sống nó mang về đây, ngươi cũng phải đối mặt với nó bằng tay không và với cả những trở ngại khác mà ngươi sẽ gặp.

– Không có vũ khí ư? Nếu ngài muốn tôi chết, hãy ra lệnh ngay lập tức, đừng mất thời gian nữa.

– Ta không muốn ngươi chết. – Eurystheus dối trá. – Ta chỉ thông báo cho ngươi công việc cuối cùng, và ngươi sẽ được tự do.

Không biết vì kiêu hãnh hay tức giận, Heracles bước tới đặt trước Eurystheus, bên cạnh giỏ táo vàng, tất cả vũ khí của chàng, những chiến cụ đã giúp chàng chiến thắng những quái vật, những địch thủ ghê gớm nhất.

– Tốt lắm. – Eurystheus nói và lại cảm thấy luồng khí lạnh chạy rần rật trong máu.

– Tâu đức vua, vì đây là thử thách cuối cùng, hãy cho phép tôi có một lời thỉnh cầu.

– Lẽ nào ngươi dám! – Copreus la lên.

– Hãy để cho anh ta nói. – Nhà vua can thiệp.

– Chúng ta không bị buộc phải chấp nhận lời thỉnh cầu này nhưng ít nhất thì anh ta cũng có quyền được nói.

Heracles cúi gập người xuống, tỏ vẻ ưng thuận và khuất phục.

– Tôi muốn được khoác bộ da của con sư tử Nemea, con sư tử mà tôi đã chinh phục được.

– Khoác bộ da sư tử à? Nhưng tại sao?

– Đó là nhiệm vụ đầu tiên mà tôi đã thực hiện dưới lệnh của ngài. Và tôi hy vọng rằng tấm da thú này sẽ mang lại sự may mắn cho tôi.

– Khoác tấm da thú để giữ lấy linh hồn à? – Eurystheus bật cười ha hả. – Ta chấp thuận! Cho mang tấm da sư tử Nemea lại đây cho Heracles! Copreus, hãy nhanh lên!

Copreus bực bội nhưng vẫn tuân lệnh. Ông ta thầm nghĩ: Mong cho Heracles khoác tấm da con sư tử khốn kiếp đó mà lang thang vĩnh viễn nơi địa ngục.

Heracles khoác tấm da sư tử lên vai và không nhìn ai, không nói một lời nào, rời Tiryns đến.địa ngục. Càng tới nhanh chàng sẽ càng sớm được tự do. Chàng chạy qua cổng thành.

– Lại có một tên muốn chết mau chóng thế!

– Copreus mỉa mai.

Để tới được địa ngục thì có thể đi mọi con đường. Chỉ cần đào một cái hố nào đó và đi mãi xuống, cánh cửa địa ngục sẽ mở ra. Theo quy luật chung thì chẳng cần tốn nhiều thời gian.

Hades không bao giờ làm trái ý muốn của các vị khách, nhất là những người muốn chia sẻ bữa ăn tối trong lửa. Một khi bước chân của các vị khách đã bước qua mặt đất, những con đường dài buồn thảm cứ mở ra tới tận dinh thự của Hades.

Heracles liều mình tới bán đảo Taygetus (tiếng Hy Lạp cổ: Ταΰγετος), rất xa Tiryns, con đường dẫn thẳng tới sông Styx, nơi Charon (tiếng Hy Lạp cổ: Χάρων) đưa những người chết tới chỗ Hades.

Đường hầm dẫn đến vương quốc người chết hết sức hoang vắng. Càng đi sâu vào, Heracles càng thấy khí ẩm tỏa ra từ những tảng đá xanh xao xâm chiếm dần vào cơ thể chàng. Cho dù chàng đã khoác tấm da sư tử Nemea. Càng đi, lớp đất mềm dưới chân chàng càng cứng rắn hơn và không bao lâu, nó đã là một lớp đá lửa, kết thành một bàn chông sắc như dao. Không khí lạnh quẩn trong hầm tối.

Heracles không còn khái niệm về thời gian nữa. Chàng đã đi sâu vào lòng đất từ lúc nào?

Con đường hầm ban đầu còn thoai thoải, giờ đây là những khoảng rộng có độ nghiêng đến chóng mặt. Những con nhện khổng lồ dệt những tấm lưới cứng như đá, va đập vào chàng làm xây xước da mặt và cơ thể chàng trước khi bị “vỡ”. Nhiều con dơi màu nâu đậm bay với tốc độ chóng mặt trước mặt chàng, có vẻ như dẫn đường cho chàng theo. Thật ra Heracles không có sự chọn lựa: Con đường hầm, từ chỗ đi xuống, chỉ dẫn tới một vực sâu.

Càng tiến về phía trước, đường hầm càng dốc hơn, các vách ngăn hai bên càng sát lại, không khí càng nóng hơn. Tấm áo da sư tử làm chàng cảm thấy khó chịu. Chàng thấy hết sức nóng nực, nhưng dù thế nào, chàng cũng không thể cởi bỏ tấm da được. Chàng mơ hồ cảm thấy đó là thế mạnh, là vũ khí duy nhất của mình, mặc dù chàng không giải thích được. Rồi Heracles lại phải khom mình mới tiến lên được, rồi lại phải bò như một con thú. Khi chàng phải trườn đi, chàng nghĩ rằng thế là hết và đã đến vương quốc của cái chết. Eurystheus quả có lý. Những tháng năm ròng rã chiến đấu chuộc lại lỗi lầm cuối cùng kết thúc ở đây với cái chết ngu xuẩn và phi lý.

Máu từ những vết xây xước chảy ròng ròng trên người, cơ bắp của chàng cứng đờ, đầu óc nặng nề và đường đi ngày càng hẹp hơn. Nghẹt thở, chàng dừng lại. Chàng chấp nhận chết ở đây mà chưa hoàn thành nhiệm vụ, nhưng không phải một cái chết khốn khổ. Chàng phải lấy lại sức lực để có thể chết trong danh dự. Heracles nằm ngủ một giấc trong không khí nóng ghê người ấy.

Chàng không biết mình ngủ trong bao lâu.

Cái nóng đánh thức chàng dậy. Từ đằng xa, một luồng ánh sáng lay động. Heracles tiếp tục cuộc hành trình.

Đột nhiên, khi cái nóng đã trở nên khủng khiếp, không chịu nổi, đường hầm lại mở rộng ra. Heracles có thể đứng thẳng lên được. Chàng tiếp tục cất bước. Rồi đường hầm mở ra tới một gian phòng rộng mênh mông, có mái vòm. Sức nóng khiến cho đá cũng tan thành nước. Heracles kinh hoàng nghĩ rằng mình cũng sẽ tan thành nước.

Có một chiếc thang được đẽo vụng về trong đá nối liền về phía cuối đường hầm với một gian phòng nữa cũng rộng mênh mông. Trên tường có những ngọn đuốc đang cháy, đó là ánh sáng mà chàng nhìn thấy từ ban nãy.

Heracles bắt đầu trèo lên những bậc thang trơn và nóng bỏng. Khi lên đến lưng chừng, chàng đã trông thấy tận cùng của cái hang. Một dòng nước đen và sôi sùng sục chia cái hang ra làm đôi. Bên bờ gần nhất có một cái thuyền đang đợi sẵn.

Heracles tiến lên. Có một người đang đứng trên thuyền. Đó là Charon, người chở những người chết tới dinh thự của Hades và được trả tiền thù lao xứng đáng.

Khi Charon thấy Heracles khoác tấm da sư tử, và máu ở trên người chảy ròng ròng, ông ta sợ hãi tới mức phải thốt lên:

– Ngươi làm ta sợ quá, ta không đòi hỏi gì cả. Trèo lên đây, ta sẽ chở ngươi đi.

Và Charon chống cây sào dài trong làn nước đẩy thuyền đi. Có lẽ đây là chuyến đò đi với tốc độ nhanh nhất trong đời ông ta. Heracles im lặng, chàng không nói một câu, không nhìn người lái đò lấy một lần. Sau khi thuyền cập bến, Heracles bước xuống và nhắm thẳng phía trước tiến bước.

Chẳng bao lâu chàng đã đứng trước những bức tường xám của dinh thự của Hades. Những cánh cửa to bằng thép mở rộng.

Chẳng có ai đón tiếp chàng cả. Heracles đứng trước cửa chính và chờ đợi. Một giọng nói đột ngột vang lên:

– Ngươi vội đến đây để chết à, Heracles?

– Tôi không có ý định đó.

– Ồ! Vậy ra ngươi ngu xuẩn đến thế sao?

Trong chiếc áo choàng hai màu đỏ đen, Hades nhìn Heracles chằm chằm với ánh mắt chế giễu:

– Tôi đến đây tìm con chó Cerberus của ngài.

– Tốt lắm. Ngươi có biết rằng ta không có cơ hội để giải trí từ vài kiếp rồi không?

– Phải chăng tôi phải giết ngài để bắt con chó Cerberus?

– Ngươi không biết rằng ta là Chúa tể của địa ngục à?

– Tôi cần gấp lắm, thưa ngài! Ngài sẽ giao Cerberus cho tôi hay tôi phải bắt nó?

– Ngươi làm ta rất thích thú, Heracles ạ. Vậy thì ta sẽ tặng Cerberus cho ngươi nếu ngươi thắng được ta.

Và không chờ đợi câu trả lời của khách, Hades cởi phắt áo khoác sẵn sàng lao vào cuộc đấu. Heracles vẫn giữ tấm da của sư tử Nemea trên vai và nhảy phắt lên người Hades, gầm rú như chính chàng là sư tử thật sự. Cả hai người ngã lăn ra đất.

Sức mạnh của Heracles tăng lên gấp bội, có thể đó là sức mạnh của con mãnh thú mà chàng mang tấm da của nó trên lưng. Heracles càng lúc càng thắng thế. Những cú đấm của Heracles rơi như mưa, như sấm sét lên người thần chết. Heracles không cảm thấy những vết thương đau đớn nữa, và chàng đánh tới tấp như chưa bao giờ làm thế. Còn những cú đấm của Hades thì chỉ như những nốt muỗi chích. Cuộc chiến đấu dường như không có hồi kết thúc. Bởi vì nếu chàng chế ngự được Hades, nghĩa là chàng đang đương đầu với một vị thần bất tử và dù có bị thương tích đến mấy cũng lành.

Hades dừng lại đột ngột và nói với chàng:

– Dừng lại đi Heracles, ngươi đã minh chứng được lòng dũng cảm của ngươi rồi. Cuộc chiến đấu này sẽ được ghi dấu vĩnh viễn ở đây. Bởi vì ngươi đã dám so tài cùng ta, điều mà không một người nào dám làm cả. Ta muốn tặng ngươi con chó Cerberus. Ta biết rõ rằng Eurystheus, dưới lệnh của Hera đã buộc ngươi phải tới địa ngục. Số phận của ngươi không kết thúc tại đây. Ta tặng cho ngươi Cerberus để ngươi mang về Tiryns chứng minh cho chuyến viếng thăm địa ngục này. Sau đó, ngươi thả nó ra để nó còn quay lại làm nhiệm vụ trong vương quốc của cái chết.

– Tôi rất cảm ơn ngài, thưa Hades! Thật là một vinh dự khi được so tài với ngài.

– Đó là niềm vui của ta. Bởi vì trong vương quốc này, chỉ có những linh hồn yếu đuối hay than vãn, rên rỉ. Nhưng nếu ngươi không trả lại Cerberus thì ngươi sẽ phải chết, Heracles ạ!

– Tôi vẫn chưa muốn chết, tôi đã nói với ngài rồi. Khi Eurystheus nhìn thấy Cerberus, nó sẽ được tự do ngay lập tức.

– Vậy thì ta tin ngươi.

Hades khoác chiếc áo choàng dài vào và huýt gió. Ngay lúc ấy, một con chó ba đầu khổng lồ xuất hiện, gầm gừ. Những cái nanh của nó đen như nước sông Styx, hẳn phải là những vũ khí đáng sợ. Heracles thấy mình đã may mắn không phải chiến đấu với nó để mang về cho Eurystheus.

Cerberus ngày càng gầm dữ hơn. Hades ra hiệu và con quái vật bỗng nhiên trở nên hiền lành như một con cừu.

– Hãy đi đi, Heracles. Đừng quên lời hứa. Cerberus sẽ theo ngươi tới Tiryns. Và sau đó…

– Sau đó, nó hoàn toàn tự do. Tôi sẽ lo việc ấy.

Cerberus cùng Heracles trở về, đi tới đâu nó cũng làm cho người qua đường hoảng sợ. Cuối cùng họ tới cổng thành Tiryns. Cửa thành rộng mở nhưng hoang vu như sa mạc. Danh tiếng của Cerberus đã tới trước khi nó đến nơi. Heracles và con chó Cerberus tới trước lâu đài.

Chẳng có ai đợi họ cả. Chắc tất cả mọi người đều sợ hãi. Heracles phải hét lên để một ai đó phải xuất hiện.

Chỉ có Copreus run rẩy bước ra.

– Eurystheus trốn đâu rồi? – Heracles tức giận hỏi.

– Đức vua ủy thác cho tôi việc này.

– Ngài thấy đấy, tôi đã trở về từ địa ngục. Và còn mang theo con chó Cerberus. Tôi nhắc lại lời hứa trước kia của Eurystheus: ông ta sẽ phải trả tự do cho tôi.

– Ngài đã tự do – Copreus run run nói. – Bây giờ ngài hãy đi đi.

– Có gì đảm bảo cho ta khi đi qua cổng thành này?

– Nỗi sợ hãi của Eurystheus, đúng vậy, và con chó khổng lồ này, đó là sự bảo đảm của ngài.

Cerberus bắt đầu gầm gừ.

– Cerberus còn quý giá gấp mấy lần đức vua của ngài. – Heracles vừa nói vừa vuốt ve con chó.

Đó là những lời đối thoại sau cùng ở thành Tiryns. Heracles quay gót và Cerberus theo sau.

Chàng rời bỏ vĩnh viễn thành phố này. Chàng đã chấm hết thời gian nô lệ ở đây và sống sót quay về sau mười hai chiến công lừng lẫy.

Chàng được tự do, cũng như Cerberus mà chàng thả ngay khi họ vượt qua cổng thành.

Cerberus chạy nhanh tới cái hang đầu tiên, rồi lao xuống, trở về xứ sở của cái chết và tiếp tục cuộc sống cạnh Hades. Còn Heracles sẽ tiếp tục cuộc sống của mình và bắt tay vào những cuộc phiêu lưu mới.

Câu chuyện “12 chiến công của Heracles (Hercules)”
– Thần thoại Hy Lạp –

12 chiến công của Heracles (Hercules) – Thần thoại Hy Lạp
Thần thoại Hy Lạp

Những câu chuyện hay nhất trong thần thoại Hy Lạp

Thần thoại Hy Lạp là tập hợp những câu chuyện kể về các vị thần trên đỉnh núi Olympus của người Hy Lạp cổ đại, ca ngợi công lao sáng tạo của họ cũng như những chiến công hiển hách các vị anh hùng cổ xưa, qua đó giúp chúng ta hiểu hơn về nguồn gốc nghi lễ, tín ngưỡng của người Hy Lạp cổ đại.

Ngoài câu chuyện “12 chiến công của Heracles” kể trên, Thế giới cổ tích còn sưu tầm và giới thiệu những câu chuyện thần thoại Hy Lạp vô cùng hấp dẫn. Hãy cùng bước chân vào xứ sở của các vị thần vĩ đại, những người anh hùng dũng cảm, hay những con quái vật đáng sợ thông qua bộ truyện Thần thoại Hy Lạp nổi tiếng trên khắp thế giới tại TheGioiCoTich.Vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *